Đánh giá kết quả sớm của kỹ thuật khâu treo xoắn ốc (tagariello) trong điều trị trĩ nội độ III

Đặt vấn đề: Phẫu thuật điều trị trĩ có nhiều phương pháp, phẫu thuật khâu treo xoắn ốc theo Tagariello là một

sự lựa chọn điều trị trĩ nội độ III.

Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm của kỹ thuật khâu treo xoắn ốc trong điều trị trĩ độ III.

Kết quả: Có 92 trường hợp phẫu thuật, tuổi trung bình 42,6 ± 13,3. Thời gian nằm viện trung bình: 1,7 ± 0,3

ngày. Sau 3 tháng tỉ lệ đi cầu ra máu 5,4%, không sa trĩ: 97,8%.

Kết luận: Phẫu thuật khâu treo xoắn ốc điều trị trĩ nội độ 3 là một kỹ thuật an toàn, hiệu quả.

Từ khóa: Khâu treo trĩ

pdf7 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 488 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đánh giá kết quả sớm của kỹ thuật khâu treo xoắn ốc (tagariello) trong điều trị trĩ nội độ III, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc mổ không có triệu chứng ra máu hậu môn. Ngoài ra, một trường hợp (0,68%) có biến chứng chảy máu muộn và nhiều sau mổ phải khâu cầm máu. Nguyên nhân là do hoại tử niêm mạc trên đường khâu(10). Cũng theo tác giả, chảy máu sau mổ trĩ có thể điều trị bằng cách chèn gạc trong ống hậu môn và trực tràng. Gạc có thể tẩm dầu bôi trơn và quấn chung quanh một ống thông trực tràng để không làm tắc hơi. Gạc có thể được chèn sâu vào bên trong đến trực tràng, để đè ép trực tiếp lên chỗ chảy máu. Ngoài ra, có thể soi đại tràng chậu hông lấy bỏ hết máu trong trực tràng để tránh gây mót rặn và thay đổi vị trí gạc chèn. Cuối cùng nếu chèn không hiệu quả thì phải tiến hành mổ lại khâu cầm máu. Theo nghiên cứu của Kumar S. và cộng sự, tác giả đã so sánh 2 nhóm bệnh nhân được cắt trĩ và khâu treo xoắn ốc trong điều trị trĩ nội độ 3, tỉ lệ chảy máu sau cắt trĩ cao hơn có ý nghĩa thống kê so với khâu treo xoắn ốc (p< 0,001)(7). So sánh với các tác giả, tỉ lệ chảy máu sau mổ trong nghiên cứu của chúng tôi ở mức trung bình, chấp nhận được. Rối loạn đi tiểu Bí tiểu là một trong những biến chứng thường gặp nhất sau phẫu thuật hậu môn trực tràng, với tỉ lệ dao động từ 1% đến 52%(13). Tỉ lệ khác nhau nhiều giữa các nghiên cứu có thể do tiêu chuẩn chọn mẫu, đối tượng nghiên cứu và định nghĩa biến chứng(3). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ rối loạn đi tiểu sau mổ là 26,1%. Đau nhiều sau mổ thì tỉ lệ rối loạn đi tiểu càng tăng. Theo Corman, nguyên nhân gây ra bí tiểu có thể do phương pháp vô cảm gây tê tủy sống, đau và co thắt trực tràng, thao tác quá nhiều trên các mô vùng ống hậu môn, cột cao cuống búi trĩ ở vòng hậu môn trực tràng, sử dụng chỉ khâu lớn, khâu nhiều mũi chỉ, truyền dịch hoặc cho bệnh nhân uống quá nhiều nước, đặt gạc vào trực tràng, mặc quần chật, sử dụng thuốc thuộc nhóm ức chế phó giao cảm hay nhóm á phiện trong lúc gây mê và sau mổ(4). Mót rặn Một trong những rối loạn đại tiện thường thấy sau phẫu thuật cắt trĩ là mót rặn. Tỉ lệ xảy ra của biến chứng này đã được báo cáo từ 1-10%(13). Theo Kumar S., tác giả thực hiện khâu treo trĩ xoắn ốc, không có trường hợp nào bị mót rặn sau mổ(7). Mót rặn sau mổ của nhóm có tụ máu trong mổ chiếm tỉ lệ 100%, trong nhóm không có máu tụ trong mổ là 1,1% (p< 0,001). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (Bảng 3). Như vậy, tụ máu trong mổ là nguyên nhân gây mót rặn sau mổ. Điều này cho thấy kỹ thuật khâu treo xoắn ốcphải cẩn thận đối với từng mũi khâu vàkhoảng cách giữa mỗi vòng khâu nên nhỏ hơn 5 mm để tránh gây tụ máu trong mổ, giảm triệu chứng mót rặn sau mổ. Thời gian nằm viện Thời gian trung bình nằm viện trong nghiên cứu của chúng tôi là 1,7 ± 0,3 ngày. Theo Kumar S., khi so sánh hai phương pháp khâu treo xoắn ốc và cắt trĩ, thời gian nằm viện trung bình là 1,5 ngày (có ý nghĩa thống kê)(7). Đây cũng là một ưu điểm chung của các phương pháp can thiệp trên đường lược. Kết quả điều trị sau 3 tháng Triệu chứng đi cầu ra máu giảm hẳn từ 81,5% còn 5,4%, và thỉnh thoảng đi cầu ra máu và bệnh nhân hài lòng với kết quả này (Bảng 4). Theo Tagariello C., đi cầu ra máu sau thời gian theo dõi từ 6 đến 34 tháng tỉ lệ còn đi cầu ra máu là 7,5%. Triệu chứng sa trĩ trước mổ là 100% trong chọn mẫu, sau thời gian theo dõi tỉ lệ không sa trĩ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Trưng Vương năm 2015 57 chiếm 97,8%. Sa trĩ còn xuất hiện 2 trường hợp (2,2%). Theo Tagariello C., sa trĩ theo dõi từ 6 đến 34 tháng, chiếm tỉ lệ 4,7%. Sau thời gian theo dõi 3 tháng sau phẫu thuật, các biến chứng sau mổ không còn ghi nhận. Tỉ lệ đi cầu ra máu 5,4% và không sa trĩ 97,8%. Sự thay đổi triệu chứng rất có ý nghĩa đối với phương pháp khâu treo xoắn ốc. Kumar S. đã thực hiện khâu treo xoắn ốc cho 25 trường hợp kết quả theo dõi sau 4 tháng cho thấy như sau: sa trĩ 01 trường hợp chiếm tỉ lệ 4% và cũng có 1 trường hợp còn đi cầu ra máu chiếm 4%(7). Bệnh nhân hài lòng với kết quả điều trị. KẾT LUẬN Qua kết quả 92 trường hợp phẫu thuật khâu treo xoắn ốc điều trị trĩ nội độ III là một phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị trĩ nội độ III. Các tỉ lệ tai biến và biến chứng trong và sau mổ thấp. Thời gian nằm viện ngắn, tỉ lệ khỏi bệnh đạt 94,6% và không có các biến chứng khác sau thời gian theo dõi 3 tháng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bailey HR., Ferguson JA. (1976), “Prevention of urinary retention by fluid restriction following anorectal operations”, Dis Colon Rectum, 19(3), pp.250-52. 2. Breivik H., Borchgrevink P. C., et al. (2008), “Assessment of pain”, Br J Anaesth, 101(1), pp. 17-24. 3. Chik A., Law WL., Choi HK. (2006), “Urinary retention after haemorrhoidectomy: impact of stapled haemorrhoidectomy”, Asian J Surg, 29(4), pp. 233-237. 4. Corman ML., Amrani S.J. (2009), “Complications of surgical hemorrhoidectomy”, Surgical treatment of hemorrhoids, Springer- Verlag, pp. 117-125. 5. Hussein A.M. (2001), “Ligation anopexy for treatment of advanced hemorrhoidal disease”, Dis Colon Rectum, 44 (12), pp. 1887-90. 6. Kaidar-Person O., Person B. et al. (2007), “Hemorrhoidal Disease: A Comprehensive Review”, J Am Coll Surg, 204(1), pp. 102-117. 7. Kumar S., Kafle P., et al. (2013), “Outcome of manual hemorrhoidopexy in the management of hemorrhoids”, NepJOL, 9(2), pp. 15-19. 8. Morinaga K., Hasuda K., Ikeda T. (1995), “A novel therapy for internal hemorrhoids: ligation of the hemorrhoidal artery with a newly devised instrument (Moricorn) in conjunction with a Doppler flowmeter”, Am J Gastroenterol, 90(4), pp. 610-13. 9. Nguyễn Trung Tín (2006), “Khâu triệt mạch và khâu treo trĩ trong điều trị trĩ hỗn hợp và trĩ vòng”, Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 10, số 1, tr. 56-59. 10. Nguyễn Trung Tín (2008), “Đánh giá tính khả thi và kết quả của phẫu thuật khâu treo trong điều trị trĩ vòng”, Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 11. Nguyễn Trung Vinh (2004), “Phẫu thuật khâu treo trong điều trị trĩ”, Tạp chí hậu môn trực tràng học, (6), tr. 33-38. 12. Nguyễn Văn Hậu (2004), “Thắt động mạch trĩ với siêu âm hướng dẫn và khâu xếp nếp niêm mạc trực tràng trong điều trị trĩ”, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 13. Ravo B., Amato A., Bianco V., et al. (2002), “Complications after stapled hemorrhoidectomy: can they be prevented?”, Tech Coloproctol, 6(2), pp.83-88. 14. Rosen L., Sipe P., et al. (1993), “Outcome of delayed hemorrhage following surgical hemorrhoidectomy”, Dis Colon Rectum, 36(8), pp. 743-6. 15. Schuurman JP., Borel Rinkes IH., Go PM. (2012), “Hemorrhoidal artery ligation procedure with or without Doppler transducer in grade II and III hemorrhoidal disease: a blinded randomized clinical trial”, Ann Surg, 255(5), pp. 840-5. 16. Senagore A. (2012), “Hemorrhoidectomy”, Master Techniques in Colon and Rectal Surgery: Anorectal Operations, Lippincott Williams A: Wilkins, pp. 1-5. 17. Tagariello C. (2011), “Manual hemorrhoidopexy in the treatment of hemorrhoidal disease”, Updates Surg, 63(1), pp. 45-50. 18. Toyonaga T., Matsushima T., et al. (2006), “Postoperative urinary retention after surgery for benign anorectal disease: potential risk factors and strategy for prevention”, Int J Colorectal Dis, 21(7), pp. 676-82. Ngày nhận bài báo: 03/8/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 12/8/2015 Ngày bài báo được đăng: 05/10/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf51_57_5405.pdf
Tài liệu liên quan