Mở đầu - Mục tiêu: Viêm hẹp bao gân gấp (VHBGG) ở bàn tay là một bệnh lý thường gặp. Tiêm corticoid
tại chỗ là liệu pháp điều trị khá phổ biến, nhưng cho đến nay tính an toàn và hiệu quả của phương pháp này chưa
được nghiên cứu sâu tại Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là xác định tỉ lệ bệnh nhân đáp ứng điều
trị với phương pháp tiêm corticoid, tỉ lệ tái phát và các biến chứng. Nghiên cứu này cũng khảo sát một số đặc
điểm lâm sàng của bệnh lý VHBGG.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả loạt ca bệnh, thực hiện tại bệnh viện
Nguyễn Tri Phương. Từ tháng 12/2012 đến tháng 6/2013 có 28 bệnh nhân với 36 ngón tay bị VHBGG được
chích Methylprednisolone acetate vào vùng ròng rọc A1 của ngón tay. Kết quả được đánh giá bằng thang điểm
đau Visual Analogue Scale (VAS) và thang điểm chức năng vận động bàn tay QUABA.
6 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 462 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đánh giá kết quả bước đầu điều trị viêm hẹp bao gân gấp ở bàn tay bằng corticoid liệu pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 438
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ VIÊM HẸP
BAO GÂN GẤP Ở BÀN TAY BẰNG CORTICOID LIỆU PHÁP
Đinh Thanh Long*, Cao Thỉ*, Cao Bá Hưởng*
TÓM TẮT
Mở đầu - Mục tiêu: Viêm hẹp bao gân gấp (VHBGG) ở bàn tay là một bệnh lý thường gặp. Tiêm corticoid
tại chỗ là liệu pháp điều trị khá phổ biến, nhưng cho đến nay tính an toàn và hiệu quả của phương pháp này chưa
được nghiên cứu sâu tại Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là xác định tỉ lệ bệnh nhân đáp ứng điều
trị với phương pháp tiêm corticoid, tỉ lệ tái phát và các biến chứng. Nghiên cứu này cũng khảo sát một số đặc
điểm lâm sàng của bệnh lý VHBGG.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả loạt ca bệnh, thực hiện tại bệnh viện
Nguyễn Tri Phương. Từ tháng 12/2012 đến tháng 6/2013 có 28 bệnh nhân với 36 ngón tay bị VHBGG được
chích Methylprednisolone acetate vào vùng ròng rọc A1 của ngón tay. Kết quả được đánh giá bằng thang điểm
đau Visual Analogue Scale (VAS) và thang điểm chức năng vận động bàn tay QUABA.
Kết quả: Bệnh lý này gặp ở nữ (71,43%) nhiều hơn nam (28,57%). Độ tuổi từ 50 đến 60 tuổi chiếm 57%.
Có 60,71% bệnh nhân đến khám khi bệnh đã khởi phát hơn 1 tháng. Triệu chứng chính khi đến khám là đau và
kẹt ngón (50%), đau và cử động vướng (28,57%). Ngón tay thường bị nhất là ngón giữa (38,9%), và ngón cái
(22,22%). Sau khi tiêm thuốc 4 tuần, 94,4% bệnh nhân hết đau hoàn toàn và cử động các ngón tay bình thường,
5,6% bệnh nhân còn đau nhẹ. Tỉ lệ bệnh nhân tái phát sau sau 3 tháng điều trị là 0%, sau 4 tháng là 5,23% và
sau 6 tháng là 33,3%, với các bệnh nhân quay lại tái khám. Có 8 bệnh nhân (22,2%) bị đau nhiều hơn nơi chích
từ 1 – 4 ngày. Có 2 bệnh nhân bị mất sắc tố da tạm thời nơi chích và 1 bệnh nhân teo da nơi chích.
Kết luận: Viêm hẹp bao gân gấp thường gặp ở nữ giới và cuối độ tuổi lao động. Bệnh nhân thường đến khám
trễ. Thường gặp nhất là ngón giữa với triệu chứng đau và kẹt ngón. Corticosteroid liệu pháp là phương pháp điều
trị khá an toàn và hiệu quả nhưng tỉ lệ tái phát khá cao.
Từ khóa: viêm hẹp bao gân gấp ngón tay, liệu pháp corticoid, ròng rọc A1, methylprednisolone acetate
ABSTRACT
ASSESSMENT OF PRELIMINARY RESULTS OF CORTICOID THERAPY
IN TREATMENT OF TRIGGER FINGER
Dinh Thanh Long, Cao Thi, Cao Ba Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 1 - 2014: 438 - 443
Background & Objectives: Stenosing tenosynovitis (Trigger finger) is a common disease. Local
corticosteroid injection is quite common therapy, but the safety and effectiveness of this method has not been
deeply studied in Vietnam so far. Our objective was to determine the the rate of patients respond to steriods
therapy, recurrent rates and complications. This study also surveys some clinical features of stenosing
tenosynovitis.
Materials & methods: Prospective described series of cases study, performed at Nguyen Tri Phuong
Hospital. From December 2012 to June 2013, 28 patients with 36 trigger fingers were injected.
Methylprednisolone acetate into the A1 pulley of the finger. Results are evaluated by Visual Analogue Scale
* Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Tác giả liên lạc: SV. Đinh Thanh Long ĐT: 0907374865 Email: dr.dinhthanhlong@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 439
(VAS) and Functional Scores acordding to QUABA.
Results: This disease is common in females (71.43%) than males (28.57%). Aged 50 to 60 years old
accounted for 57 %. There are 60.71 % of patients presented after more than 1 month onset. The main symptoms
are pain and cacthed digit (50%), pain and entangled movement (28.57 %). Middle finger is the most often
(38.9%), and then is thumb (22.22%). Four weeks after injection, 94.4 % of patients were completely free of pain
and had normal finger movements, 5.6% of patients still had mild pain. The recurrent rate after 3 months of
treatment was 0 %, after 4 months was 5.23% and 66.7 % after 6 months, among the patients who returned to
the clinic. There are 8 patients (22.2%) were more painful at injectional spot in 1–4 days. Two patients had
temporary skin depigmentation and 1 patient had skin atrophy at injection site.
Conclusion: Stenosing tenosynovitis is often in women and at the end of working age. Patients amost
present late. The most common is middle finger and the most ymptoms are pain and cacthed digit. Corticosteroid
therapy is safe and effective, but recurrence rates are quite high.
Keywords: stenosing tenosynovitis, corticosteroid therapy, A1 pulley, methylprednisolone acetate
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm hẹp bao gân gấp (VHBGG), hay bệnh
ngón tay cò súng, bệnh ngón tay bật, là một bệnh
lý thường gặp ở bàn tay, tỉ lệ mắc khoảng 28 ca
trên mỗi 100.000 dân. Nguy cơ mắc bệnh là 2,6%
cho suốt thời gian sống của một thế hệ dân số(8).
Bệnh thường gặp ở những người có hoạt động
cầm nắm nhiều hoặc chấn thương lặp đi lặp lại ở
vùng bàn tay liên quan đến công việc hay chơi
thể thao. Nguyên nhân cũng có thể là do khối u,
viêm nhiễm, viêm khớp dạng thấp hay rối loạn
chuyển hóa (gout, đái tháo đường)(4).
VHBGG ở giai đoạn đầu thường gây đau ở
bàn tay và tiến triển dần đến giới hạn vận động
của ngón tay. Việc điều trị tùy thuộc vào giai
đoạn bệnh mà có thể lựa chọn điều trị bảo tồn
(mang nẹp ngón tay, tiêm corticosteroid tại chỗ
và các biện pháp hỗ trợ thêm khác như sử dụng
NSAIDs, corticosteroid đường uống) hay phẫu
thuật (mổ hở hay mổ kín qua da). Tiêm
corticosteroid tại chỗ là phương pháp thường
dùng để điều trị VHBGG có triệu chứng. Theo
Benson và Ptaszek(2) đây là phương pháp được
đánh giá là ít xâm lấn, an toàn, và hiệu quả làm
giảm triệu chứng kéo dài với tỉ lệ thành công lên
tới 60% chỉ với một liều duy nhất.
Tại Việt Nam, phương pháp điều trị bằng
chích corticoid đã được áp dụng khá rộng rãi tại
các khoa chấn thương chỉnh hình. Tuy nhiên cho
đến nay trong nước vẫn chưa có một báo cáo nào
về tính hiệu quả và độ an toàn cũng như biến
chứng của phương pháp này. Vì vậy, chúng tôi
thực hiện nghiên cứu chích Methylprednisolone
acetate vào chỗ tổn thương tại ròng rọc A1 ngón
tay và theo dõi kết quả. Ngoài đánh giá kết quả
điều trị, chúng tôi cũng ghi nhận một số đặc
điểm lâm sàng của những bệnh nhân(BN) mắc
bệnh này đến khám tại bệnh viện Nguyễn Tri
Phương, thành phố Hồ Chí Minh.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dân số chọn mẫu
Bệnh nhân bị VHBGG đến khám và điều trị
tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Cách chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các BN trên 16 tuổi có triệu chứng lâm sàng
VHBGG ngón tay ở giai đoạn I đến III, đồng ý
điều trị bằng phương pháp tiêm corticoid tại chỗ.
Tiêu chuẩn loại trừ
BN có triệu chứng kéo dài trên 6 tháng, BN
đã được điều trị bằng phương pháp can thiệp
trước đây, BN có bệnh lý suy giảm miễn dịch
hoặc đang dùng thuốc ức chế miễn dịch, BN bị
viêm hẹp bao gân gấp bàn tay bẩm sinh, BN có
bệnh lý nhiễm trùng vùng da dự định làm thủ
thuật.
Các bước thực hiện
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 440
Ghi nhận các biến số cơ sở, tiền căn và triệu
chứng lâm sàng của BN.
Đánh giá lâm sàng bằng thang điểm đau
Visual Analogue Scale VAS (bảng 1) và thang
điểm chức năng vận động bàn tay QUABA(6).
Bảng 1: Thang điểm đánh giá đau VAS
0 điểm
1 – 2
điểm
3 – 4
điểm
5 – 6
điểm
7 – 8
điểm
9 – 10
điểm
Không
đau
Đau rất
nhẹ
Đau nhẹ Đau vừa
Đau
nặng
Đau rất
nặng
Thang điểm QUABA dựa trên 4 nhóm
hoạt động của bàn tay: [1] Mặc quần áo (đi vớ,
cài cúc áo); [2] Chăm sóc cá nhân (gội, chải
đầu, lau khô bằng khăn); [3] Thực hiện được
các công việc đơn giản (sử dụng được kéo, mở
đồ hộp); [4] Những cử động tay khéo léo (nhặt
được đồng xu từ đáy hộp, giữ được một ly
nhựa đựng đầy nước, khóa và mở được khóa
cửa, viết được bằng bút). Đánh giá thang điểm
QUABA như sau:
Không thể thực hiện các hoạt động: 0 điểm.
Chỉ thực hiện được các hoạt động khi được
hỗ trợ từ bên ngoài: 1 điểm.
Giảm rõ khả năng thực hiện các hoạt động:
2 điểm.
Giảm nhẹ khả năng thực hiện các hoạt động:
3 điểm
Khả năng hoạt động bình thường: 4 điểm.
Tiến hành: Bệnh nhân được tiêm 1ml Depo-
medol (Methylprednisolone acetate) (40mg/1ml)
ở vị trí ròng rọc A1 tương ứng với khớp bàn đốt,
sau thủ thuật nằm nghỉ và theo dõi tại bệnh viện
trong vòng 30 phút. Bệnh nhân được đánh giá
các biến chứng sớm bao gồm shock phản vệ, đau
nhiều hơn ở vùng chích, mất/giảm cảm giác
vùng chích,Sau đó BN được theo dõi tái khám
sau 2 tuần, 4 tuần, 3 tháng, 4 tháng và 6 tháng để
đánh giá theo thang điểm VAS và QUABA.
KẾT QUẢ
Đặc điểm lâm sàng của mẫu nghiên cứu
Từ tháng 12/2012 đến tháng 6/2013 có 28
bệnh nhân với 36 ngón tay bị VHBGG được
chọn vào mẫu.
Tuổi: trung bình 54,3 tuổi (39-75), tuổi từ 50
đến 60 tuổi chiếm 57%.
Giới: có 20 nữ (71,43%) và 8 nam (28,57%).
Nghề nghiệp: Gồm nhiều nghề khác nhau
như công nhân (28,57%), nông dân (10,7%), nhân
viên văn phòng (10,7%) và một số nghề khác
như nội trợ, giáo viên, điều dưỡng.
Thời gian khởi phát bệnh: trung bình 2.38
tháng, trong đó phần đông các BN đến khám khi
bệnh đã khởi phát hơn 1 tháng (60,71%), và rất ít
BN đến khám ở tháng đầu tiên bị bệnh (17,86%).
Lý do đến khám chủ yếu là đau và kẹt ngón
(50%), đau và cử động vướng (28,57%).
Độ nặng: giai đoạn 3 có 20 ca (55,56%), đoạn
2 có 10 ca (27,8%), chỉ có 6 ca ở giai đoạn sớm
(16,67%).
Số ngón tay không thuận nhiều hơn (58,3%).
Ngón thường bị bệnh nhất là ngón giữa
(38,9%) và ngón cái (22,22%). Có 8 BN (28,57%)
bị viêm hẹp bao gân gấp ở 2 ngón tay cùng lúc,
trong đó có 4 ca bị 2 ngón cùng một bàn tay là
ngón 3, 4 (3 ca) và ngón 2, 3 (1 ca).
Bệnh lý đi kèm gồm có hội chứng ống cổ tay
(21,43%), bệnh van tim (7,14%), suy van TM cẳng
chân (10,7%), thoái hóa đốt sống cổ (3,6%), đái
tháo đường (14,29%), tăng huyết áp (14,29%),
suy thận (3,57%) và viêm gan siêu vi B (3,57%).
Kết quả điều trị
Đáp ứng điều trị (Bảng 2).
Bảng 2: Kết quả theo dõi điều trị
Đánh giá
Giai đoạn
Điểm VAS
trung bình
Điểm QUABA
trung bình
Trước điều trị 7,11 3,39
Sau điều trị
2 tuần 2,17 3,89
4 tuần 0,97 4
3 tháng 0,58 4
Sau 2 tuần theo dõi, số ca đáp ứng hoàn toàn
với phương pháp điều trị trên là 24 ca (chiếm
66,67%), với điểm VAS và QUABA trung bình
của các bệnh nhân trước và sau điều trị lần lượt
là 7,11-3,39 và 2,17-3,89, sự thay đổi này có ý
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 441
nghĩa thống kê (p<0,01).
Sau 4 tuần tỉ lệ đáp ứng điều trị của BN là
94,4%, chỉ có 2 ca (5,6%) còn đau nhẹ (điểm
VAS=3), chức năng vận động bàn tay của tất cả
các BN đều ở mức như người bình thường (điểm
QUABA=4).
Sau 3 tháng, theo dõi được 24/36 BN và
không có ca nào tái phát.
Sau 4 tháng, theo dõi được 19 ca có 1 ca tái
phát (tỉ lệ 5,6%).
Sau 6 tháng theo dõi được 6 ca có thêm một
ca tái phát (33,3%).
Biến chứng do chích
Đau nhiều nơi chích từ 1-4 ngày có 8 ca
(22,2%) các BN này đều đáp ứng với thuốc giảm
đau ngoại biên Efferalgan.
Mất sắc tố da tạm thời nơi chích: có 2 ca (5,6%)
và biến mất trong vòng 4 tuần sau điều trị.
Teo da nơi chích: có 1 ca (chiếm 2,8%).
Không có trường hợp nào nhiễm trùng.
BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng
Về giới tính, tuổi và nghề nghiệp của BN
Bệnh lý này chiếm ưu thế ở nữ (71,43%) hơn
nam giới, điều này phù hợp với thống kê của các
nghiên cứu trong y văn, tỉ lệ BN nữ của tác giả
Camargo DA là 90,84%(3), tác giả Tamara D.
Rozental là 69,35%(7), tác giả Maneerit J là
93,84%(5). Nữ giới thường gặp bệnh lý này lúc 50
đến 60 tuổi (chiếm 65%), nam giới độ tuổi
thường gặp nhất trẻ hơn (dưới 50 tuổi, chiếm
50%). Đây là khoảng thời gian ở cuối độ tuổi lao
động, gợi ý công việc là một yếu tố nguy cơ và
tính chất công việc khác nhau của 2 giới có thể có
tác động khác nhau đến độ tuổi khởi phát bệnh.
Một số nghiên cứu cũng ủng hộ một phần quan
điểm công việc của bệnh nhân có liên quan đến
bệnh lý VHBGG. Sohail Akhtar và cộng sự(1) ghi
nhận sự liên quan của các BN có công việc có các
hoạt động lặp đi lặp lại hay những công nhân
làm các công việc không quen thuộc, Ah
Makkouk và công sự(4) ghi nhận sự liên quan của
bệnh lý viêm hẹp bao gân gấp và các công việc
cần sự cầm nắm như sử dụng kéo, các vật cứng
hoặc các dụng cụ cầm tay.
Lý do đến khám
BN đi khám vì đau kèm kẹt ngón (50%),
hoặc kèm cử động vướng/tiếng bật (28,57%),
rất ít BN đi khám chỉ vì đau đơn thuần
(14,29%) cho thấy tuy rằng đây là bệnh lý
thường gặp nhưng chưa nhận được sự quan
tâm đúng mực của người bệnh, để bệnh diễn
tiến trễ rồi mới đi khám.
Thời gian khởi phát bệnh và giai đoạn bệnh
BN đến khám sớm dưới 1 tháng là rất ít
(13,9%), hầu hết đến khám ở giai đoạn từ hơn 1
tháng đến dưới 3 tháng, nhưng cũng có đến 25%
BN đến khám sau hơn 3 tháng có triệu chứng. Lý
giải là do BN đã đến khám và điều trị ở y tế
tuyến trước nhưng không đáp ứng với điều trị
(thường là NSAIDs đường uống) sau đó BN mới
đến khám tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương.
Chúng tôi ghi nhận thời gian khởi phát bệnh
càng dài thì bệnh càng ở giai đoạn trễ. Sự khác
biệt về giai đoạn bệnh giữa những BN khởi phát
bệnh dưới 1 tháng với những BN khởi phát bệnh
trễ hơn 3 tháng là có ý nghĩa thống kê (χ2 = 13,33
> 10,38, p < 0,001).
Phân bố ngón tay bị bệnh
Ngón thường bị bệnh nhất là ngón giữa
(38,9%) và chủ yếu ở bàn tay không thuận
(58,3%). Tỉ lệ của chúng tôi hơi khác so với
nghiên cứu của tác giả Camargo DA(3) khi ngón
tay bệnh thường gặp là ngón cái (43,5%) và ở
bàn tay thuận (57,3%), có lẽ là do sự khác biệt về
công việc của dân số chọn mẫu.
Các bệnh lý đi kèm
Chúng tôi ghi nhận bệnh lý thường gặp nhất
ở bàn tay là hội chứng ống cổ tay (21,43%),
tương tự với kết quả của tác giả Tamara D.
Rozental(7) (29,03%). Đái tháo đường cũng là
bệnh lí đi kèm thường gặp (17,86%), tỉ lệ này
thấp hơn Tamara D. Rozental (20,97%) nhưng
cao hơn Camargo DA (10,69%). Sự khác biệt có lẽ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 442
là do sự khác nhau về cỡ mẫu và tần suất lưu
hành đái tháo đường của các dân số chọn mẫu.
Kết quả điều trị
Về đáp ứng điều trị
Sau 2 tuần có đến hơn một nửa số bệnh
nhân (67%) đáp ứng hoàn toàn với
corticosteroid liệu pháp, và sau 1 tháng chỉ còn
5,6% BN đáp ứng chưa hoàn toàn. So sánh với
kết quả nghiên cứu của tác giả Camargo DA(3)
thì có 69,5 % bệnh nhân giảm triệu chứng ngay
sau tuần đầu tiên, và số ngón tay không cải
thiện triệu chứng sau khi tiêm corticoid là 16
trên 131 ngón (12,31%). Sự khác biệt có lẽ do
chúng tôi chỉ đưa vào nghiên cứu những bệnh
nhân ở giai đoạn 1 đến 3 của bệnh, loại trừ
những BN ở giai đoạn 4 (đã có khóa ngón
và/hoặc co rút khớp bàn đốt), còn tác giả
Carmago thì không loại trừ những BN này.
Đáp ứng điều trị theo giai đoạn
Phân tích diễn tiến đáp ứng đối với điều trị
theo từng giai đoạn bệnh bằng điểm VAS trung
bình của từng nhóm BN cho kết quả như trong
bảng 3.
Bảng 3: Đáp ứng điều trị theo giai đoạn
BN giai
đoạn 1
BN giai đoạn
3
p
VAS sau 2 tuần 2 2,45 0,12
VAS sau 4 tuần 0,83 1,15 0,0045
Như vậy, sự cải thiện điểm VAS của các BN
ở giai đoạn 1 và các BN ở giai đoạn 3 sau 4 tuần
điều trị khác nhau có ý nghĩa thống kê, tức là BN
đến ở giai đoạn trễ thì đáp ứng với phương pháp
tiêm corticoid kém hơn ở giai đoạn sớm. Nghiên
cứu của Carmago DA(3) cũng có được kết luận
tương tự. Sau 6 tháng theo dõi, 6 ca ở giai đoạn 1
không ai còn triệu chứng nhưng 20 ca giai đoạn
3 có đến 6 ca có triệu chứng trở lại.
Tỉ lệ tái phát
Sau 6 tháng, chúng tôi chỉ theo dõi được 6
BN, trong đó có có 2 BN tái phát (chiếm 33,3%).
Tỉ lệ này có 1 sự tương đồng với phân tích
Kaplan – Meier của tác giả Tamara D. Rozental(7)
trong nghiên cứu năm 2008 của ông. Cụ thể,
Tamara ước lượng tỉ lệ không bị tái phát của
bệnh nhân sau tiêm corticosteriod vào khoảng
70% lúc 6 tháng (khoảng tin cậy 95%, từ 63% đến
77%) và 45% ở 12 tháng (khoảng tin cậy 95%, từ
36% đến 54%). Tuy nhiên vì không theo dõi
được hết các bệnh nhân đã được chích thuốc nên
rất khó nêu lên khả năng tái phát sau điều trị.
Biến chứng của phương pháp điều trị
Chúng tôi gặp ít biến chứng sau điều trị
(8/36 ca). Các biến chứng hầu hết là biến chứng
sớm và mất đi sau 1 khoảng thời nhất định (đau
nhiều hơn nơi chích tối đa 4 ngày, mất sắc tố da
tạm thời tối đa 4 tuần). Chỉ có 1 ca bệnh nhân bị
teo da vùng chích tuy nhiên điều này hoàn toàn
không ảnh hưởng đến khả năng hoạt động bàn
tay hay tính thẩm mỹ của BN và y văn cũng ghi
nhận biến chứng này sẽ cải thiện trong vòng 1
năm sau điều trị. Năm 2005, tác giả Sohail
Akhtar(1) và cộng sự trong nghiên cứu của mình
cũng ghi nhận các biến chứng kể trên chỉ chiếm
một tỉ lệ rất nhỏ (từ 0,01 – 0,03%). Như vậy liệu
pháp corticosteroid thực sự là một liệu pháp an
toàn cho BN bị viêm hẹp bao gân gấp ở bàn tay.
KẾT LUẬN
Bệnh VHBGG ngón tay thường gặp nữ
giới ở cuối độ tuổi lao động, bệnh nhân
thường đến khám trễ. Triệu chứng chính khi
đến khám là đau và kẹt ngón (50%), đau và cử
động vướng (28.57%). Ngón tay thường bị
nhất là ngón giữa (38,9%), và ngón cái
(22,22%). Tỉ lệ BN đáp ứng điều trị bằng chích
methylprednisolone acetate tại chỗ là 94.4% ca
đáp ứng hoàn toàn và 5,6% ca đáp ứng một
phần. Tỉ lệ BN tái phát triệu chứng sau 3 tháng
điều trị là 0%, sau 4 tháng điều trị là 5,23%, và
sau 6 tháng điều trị là 33,3%. Biến chứng xảy
ra ít và thường nhẹ. Nghiên cứu này có số liệu
nhỏ và thời gian theo dõi còn ngắn, chỉ là một
nghiên cứu thăm dò tác dụng của chích
methylprednisolone acetate để điều trị
VHBGG đối với người Việt Nam, từ đó có thể
hướng đến việc nghiên cứu sâu hơn và đầy đủ
hơn với phương pháp điều trị này.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chấn Thương Chỉnh Hình 443
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akhtar S, Bradley MJ, Quinton DN, Burke FD (2005), “Cinical
review: Management & referal for trigger finger/thumb”, BMJ,
331, pp.30–33.
2. Benson LS, Ptaszek AJ (1997), “Injection versus surgery in the
treatment of trigger finger”, J Hand Surg., 22 (A), pp.138–144.
3. Camargo DA, Angelini LC, Oliveira MT, Sawaeda DM (2009),
“ Prospective study of the conservative treatment of trigger
finger: evaluation of 131 fingers”, Einstein., 7 (1), pp.76–80.
4. Makkouk AH, Oetgen ME, Swigart CR, Dodds SD (2008),
“Trigger finger: etiology, evaluation, and treatment”, Curr Rev
Musculoskelet Med., pp.92–96.
5. Maneerit J, Sriworakun C, Budhraja N, Nagavajara P (2003),
“Trigger thumb: Results of a prospective randomised study of
percutaneous release with steroid injection versus steroid
injection alone”, J Hand Surg [Br], 28, pp.586–589.
6. Pirela-Cruz MA (2005), “Tendinitis, Tenosynovitis and
Dupuytren’s Disease, Hand Surgery Review Course”,
American Association for Surgery of the Hand (AASH), pp.1–4.
7. Rozental TD, Zurakowski D, Blazar PE (2008), “Trigger finger:
Prognostic indicator of recurrence following corticosteriod
injection”, J Bone Joint Surg [Am], 90, pp.1665–1672.
8. Stahl S, Kanter Y, Karnielli E (1997), “Outcome of trigger
finger treatment in diabetes”, J Diabetes Complications, 11,
pp.287–290.
Ngày nhận bài báo: 24/10/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 24/10/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 438_5805.pdf