Mục đích: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả kiểm soát lipid máu bằng Atorvastatin trên
bệnh nhân sau đột quị nhồi máu não (NMN) cấp.
Phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 08/2012 đến tháng 04/2013, nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, so sánh
trước sau thực hiện trên 135 bệnh nhân đột quị NMN cấp nhập viện tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp. So sánh
hiệu quả kiểm soát lipid máu bằng Atorvastatin trên các chỉ số Cholesterol toàn phần, Triglyceride, LDL‐C,
HLD‐C trước và sau điều trị. Thang điểm Rankin có hiệu chỉnh (mRS) và thang điểm Barthel được sử dụng để
đánh giá tình trạng bệnh nhân sau 3 tháng. Các yếu tố liên quan được xác định qua phân tích đơn biến và phân
tích hồi qui đa biến logistic.
8 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả kiểm soát lipid máu bằng atorvastatin trên bệnh nhân sau đột quị nhồi máu não cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, ở các nước phát triển Châu Âu và Bắc Mỹ
tuổi trung bình cao hơn là trên 70 tuổi. Giới nam
nhiều hơn nữ (63% so với 37%). Tỉ lệ nam/nữ
1,7. Các nghiên cứu trong và ngoài nước cũng có
kết quả tương tự, phù hợp với y văn tỉ lệ
nam/nữ ở bệnh nhân đột quị là 1,8 – 2,4.
Hiệu quả kiểm soát lipid máu sau 3 tháng
cho thấy các chỉ số lipid máu giảm có ý nghĩa
thống kê so sánh trước và sau điều trị với giảm
Cholesterol (p = 0,001), giảm LDL‐C (p = 0,001),
giảm Triglyceride (p = 0,001) và tăng HDL‐C
(p=0,001). Nhiều nghiên cứu đã chứng minh,
giảm nồng độ LDL‐C bằng HMG –CoA
reductase (statin) có thể làm giảm tỉ lệ đột quị
trong dân số nguy cơ cao. Bên cạnh giảm mức
LDL‐C, statin còn có các cơ chế tác động khác
như cải thiện chức năng nội mô mạch máu, ổn
định tính vẹn toàn của vi mạch, chống viêm,
chống kết tập tiểu cầu và điều hòa miễn dịch. Vì
vậy, điều trị hạ lipid máu là một tiến bộ quan
trọng trong phòng ngừa đột quị nhồi máu não
tái phát, đặc biệt ở những bệnh nhân xơ vữa
động mạch lớn. So sánh trung bình các trị số
men gan, đường huyết và huyết áp trước và sau
điều trị nhận thấy các trị số trung bình men gan
SGOT, SGPT, đường huyết không thay đổi có ý
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 500
nghĩa so với trước và sau điều trị (p lần lượt =
0,09, 0,07, 0,5). Huyết áp tâm thu và tâm trương
giảm có ý nghĩa so với trước và sau điều trị (p
lần lượt = 0,001 và 0,001).
Mức độ phục hồi vận động có cải thiện đánh
giá qua điểm mRS ở các thời điểm xuất viện, 30
ngày và 90 ngày, khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p <0,001. Mức độ phục hồi vận động cũng
cải thiện qua điểm số Barthel ở các thời điểm
xuất viện, 30 ngày và 90 ngày, khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p <0,001. Các yếu tố liên
quan đến mức độ phục hồi vận động sau 3
tháng: Chúng tôi chia điểm mRS từ 0 – 2 là hồi
phục tốt, >2 là hồi phục kém. Khi so sánh các chỉ
số trung bình tuổi, huyết áp tâm thu, huyết áp
tâm trương và điểm NIHSS với các điểm số mRS
và Barthel sau 3 tháng chúng tôi nhận thấy: mức
độ cải thiện vận động có liên quan với tuổi, tuổi
càng cao khả năng hồi phục càng kém, >60 tuổi
hồi phục kém hơn, khác biệt có ý nghĩa thống kê
cả cho điểm số Rankin và Barthel với p lần lượt
là <0,001 và <0,001. Có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa huyết áp (cả tâm thu và tâm
trương) với mức độ phục hồi vận động, huyết
áp càng cao khả năng hồi phục càng kém qua
điểm số mRS >2 với p lần lượt là <0.04 và <0,01
và Barthel <90 với p lần lượt là <0,005 và <0,015.
Điểm NIHSS lúc nhập viện cao >10 khả năng hồi
phục vận động kém hơn so với điểm NIHSS <10
đánh giá qua điểm số mRS >2 và Barthel <90,
khác biệt có ý nghĩa (p <0,001). Nghiên cứu của
Di Carlo và cộng sự, tuổi có liên quan đến kết
cục chức năng thần kinh sau 3 tháng ở bệnh
nhân đột quị nhồi máu não cấp: tuổi cao >80 tuổi
có kết cục xấu hơn đánh giá qua điểm Rankin và
Barthel, khác biệt có ý nghĩa với tỉ suất chênh
OR = 7,04, p <0,001). Theo y văn, hơn 80% các
cơn đột quị xảy ra ở người có tuổi (≥65 tuổi) và
kết cục bệnh nhân sau đột quị ảnh hưởng do
tuổi là rất cao. Điều này là do sự gia tăng tính dễ
tổn thương của não người cao tuổi liên quan với
một số thay đổi trong não niên. Bệnh nhân cao
tuổi thường được điều trị ít hiệu quả và có kết
quả xấu hơn so với người trẻ tuổi. Mối liên quan
các yếu tố nguy cơ với phục hồi vận động qua
điểm mRS: Kết quả phân tích đơn biến, khả
năng phục hồi vận động qua điểm mRS ở nhóm
hồi phục tốt 0 ‐ 2 có liên quan với: nhóm tuổi
≤60, nồng độ cholesterol <5,2 mmol/l và tiền sử
điều trị statin trước nhập viện, có ý nghĩa thống
kê với OR lần lượt là 6,4 (p = 0,001), 6,5 (p = 0,02)
và 2,9 (p = 0,03). Kết quả phân tích hồi qui đa
biến, nhóm tuổi và tăng cholesterol là yếu tố
nguy cơ có liên quan độc lập với khả năng phục
hồi vận động tốt sau 3 tháng qua điểm Rankin
có ý nghĩa thống kê với OR 7,2 (p = 0,001) và OR
0,1 (p = 0,015). Mối liên quan các yếu tố nguy cơ
với phục hồi vận động qua điểm Barthel: Kết
quả phân tích đơn biến, phục hồi vận động kém
theo thang điểm Barthel <90 liên quan với nhóm
tuổi có ý nghĩa thống kê với OR = 6,6 (p = 0.001).
Tuổi ≤60 khả năng phục hồi tốt hơn. Phân tích
hồi qui đa biến, nhóm tuổi >60 là yếu tố nguy cơ
độc lập liên quan với phục hồi vận động kém
với chỉ số Barthel <90 sau 3 tháng, có ý nghĩa
thống kê với OR 6,6 (p = 0,001).
Tỉ lệ NMN tái phát trong 90 ngày là 6,7%.
Nhóm có rối loạn lipid máu chiếm tỉ lệ cao hơn
nhóm không có rối loạn lipid máu (7,3% so với
5,0%), không khác biệt (p = 1,0). Nhiều nghiên
cứu tiền cứu đã chứng minh rằng các chất ức
chế HMG‐CoA reductase (statin) làm giảm nguy
cơ đột quị tái phát 20% ‐ 25%. Chúng tôi không
tìm thấy mối liên quan giữa nồng độ trung bình
các chỉ số lipid máu với tỉ lệ tái phát bệnh sau 3
tháng điều trị. Có mối liên quan giữa điểm mRS
>2 và Barthel <80 với tỉ lệ tái phát bệnh sau 3
tháng có ý nghĩa thống kê, với p lần lượt là 0,01
và 0,003.
KẾT LUẬN
Kiểm soát lipid máu bằng Atorvastatin có
hiệu quả làm giảm các chỉ số lipid máu có ý
nghĩa thống kê so sánh trước và sau điều trị với
giảm cholesterol, giảm LDL‐C, giảm triglyceride
và tăng HDL‐C (p đều <0,001). Hiệu quả phục
hồi vận động đánh giá theo thang điểm Rankin
hiệu chỉnh và Barthel so sánh trước và sau điều
trị cải thiện có ý nghĩa thống kê (p <0,001). Các
yếu tố có liên quan độc lập đến phục hồi vận
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 501
động sau 3 tháng, qua phân tích hồi qui đa biến
với điểm mRS ≤2 gồm nhóm tuổi ≤60 với OR 7,2,
p = 0,001, cholesterol máu <5,2 mmol/l với OR
0,1, p = 0,01 và điểm Barthel <90 với OR 6,6, p =
0,001. Tỉ lệ nhồi máu não tái phát trong vòng 90
ngày là 6,7%. Tỉ lệ tái phát ở nhóm có rối loạn
lipid cao hơn nhóm không có rối loạn lipdid,
không có ý nghĩa thống kê (p = 1,0). Các yếu tố
có liên quan độc lập với tỉ lệ tái phát sau 3 tháng
qua phân tích hồi qui đa biến gồm: nhóm tuổi
>80 với OR 0,24 (p = 0,04).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amarenco P, Laubreuche J, et al (2009). Lipid management in
the prevention of stroke: review and updated meta‐analysis of
statins for stroke prevention. Lancet Neurol, 8(5), pp.453‐63.
2. Amarenco P, et al (2007). Atorvastatin in prevention of stroke
and transient ischemic attack. Expert Opin Pharmacother, 8(16),
pp.2789‐97.
3. Adams RJ, Albers G, et al (2008). Update to the American Heart
Association/American Stroke Association Council on Stroke
(AHA/ASA) recommendations for prevention of stroke in
patients with ischemic stroke or transient ischemic attack. Stroke,
39, pp.1647‐52.
4. Bowman TS, Sesso HD, et al (2003). Cholesterol and the risk of
Ischemic Stroke. Stroke, 34, pp.2930‐34.
5. Boden‐Albala B and Sacco RL (2002). Modifiable risk factors for
stroke: hypertension, diabetes mellitus, lipids, tobacco use,
physical inactivity, and alcohol. The prevention of stroke, The
Parthenon Publishing Group, 11 st Edition, pp.32‐48.
6. Catapano A, Reiner Z, et al (2011). ESC/EAS Guidelines for the
management of dyslipidemias. The Task Force on the
management of dyslipidemias of the European Society of
Cardiology (ESC) and the European Atherosclerosis Society
(EAS). European Heart Journal, 32, pp.1769‐1818.
7. Di Napoli M (2004). Benefit of statins in cerebrovascular disease.
Current opinion in Investigational Drugs, 5(3), pp.295‐305.
8. Elkind MS, et al (2009). Outcomes after stroke: risk of recurrent
ischemic stroke and other events. Am J Med, 12(4), pp.7‐13.
9. Gaspardone A, Arrca M (2007). Atorvastatin: its clinical role in
cerebrovascular prevention. Drugs, 67, suppl 1, pp.55‐62.
10. Lakhan SE, Bagchi S, Hofer M, et al (2010). Statins and clinical
outcome of acute ischemic stroke: a systematic review.
International Archives of Medicine, 3: 22 doi:10.1186/1755‐7682.
11. Ní Chróinín D, Asplund K, et al (2013). Statin therapy and
outcome after ischemic stroke: systematic review and meta‐
analysis of observational studies and randomized trials. Stroke,
44(2), pp.448‐56.
12. Tziomalos K, Athyros VG, et al (2009). Dyslipidemia as a risk
factor for ischemic stroke. Curr Top Med Chem, 9(14), pp.1291‐7.
13. Vũ Anh Nhị (2012). Chẩn đoán và điều trị tai biến mạch máu
não. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, tr.1‐17.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 494_9594.pdf