Đánh giá dấu chân sinh thái (Ecological Footprint) của sinh viên tiểu học trường Đại học Quảng Nam
Bài báo đánh giá về chỉ số dấu chân sinh thái (DCST) của sinh viên sư phạm
ngành Tiểu học trường Đại học Quảng Nam. Kết quả cho thấy phần lớn sinh viên chưa có
lối sống bền vững thể hiện qua dấu chân sinh thái đạt 2.31 gha cao hơn DCST trung bình
của nước ta là 0.69 gha/người và thấp hơn toàn cầu là 0.39 gha/người. Sau khi thực hiện
một số hoạt động trải nghiệm giáo dục môi trường thì DCST sinh viên giảm còn 1.99 gha.
Từ đó, cần tiến hành nhiều hoạt động giáo dục môi trường thường xuyên và đa dạng hơn để
giảm thiểu DCST trong sinh viên
Nội dung tài liệu Đánh giá dấu chân sinh thái (Ecological Footprint) của sinh viên tiểu học trường Đại học Quảng Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29
ĐÁNH GIÁ DẤU CHÂN SINH THÁI
(ECOLOGICAL FOOTPRINT) CỦA SINH VIÊN
TIỂU HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
Triệu Thy Hòa1, Trương Văn Thành2
Tóm tắt: Bài báo đánh giá về chỉ số dấu chân sinh thái (DCST) của sinh viên sư phạm
ngành Tiểu học trường Đại học Quảng Nam. Kết quả cho thấy phần lớn sinh viên chưa có
lối sống bền vững thể hiện qua dấu chân sinh thái đạt 2.31 gha cao hơn DCST trung bình
của nước ta là 0.69 gha/người và thấp hơn toàn cầu là 0.39 gha/người. Sau khi thực hiện
một số hoạt động trải nghiệm giáo dục môi trường thì DCST sinh viên giảm còn 1.99 gha.
Từ đó, cần tiến hành nhiều hoạt động giáo dục môi trường thường xuyên và đa dạng hơn để
giảm thiểu DCST trong sinh viên
Từ khóa: dấu chân sinh thái, sức tải sinh học
1. Mở đầu
Con người sống dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Những tài nguyên này dưới nhiều
dạng như khoáng sản, đất, nước và năng lượng cung cấp nguyên liệu cơ bản cho mọi hoạt
động của chúng ta trên hành tinh. Không có sự tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên thì nền kinh tế,
xã hội cũng như con người không thể tồn tại. Tự nhiên cung cấp cho con người tất cả những
tài nguyên cần thiết cho sự sống, từ năng lượng cho nhiệt, điện và di chuyển, gỗ cho giấy và
bàn ghế, bông cho quần áo, vật liệu xây dựng cho phố xá và nhà cửa, thức ăn và nước uống
cho chế độ ăn khỏe mạnh. Nhưng con người lại có những tác động xấu đến tự nhiên gây ra
nhiều biến đổi như ô nhiễm môi trường, hiệu ứng nhà kính[2]
Hiện nay, môi trường tự nhiên đang bị suy thoái nghiêm trọng và mối liên quan của
nó không chỉ là vấn đề đối với xã hội mà còn liên quan trực tiếp đến với mỗi cá nhân. Theo
kết quả nghiên cứu về Lối sống sinh thái của sinh viên Việt Nam cho thấy phần lớn sinh viên
còn chưa hiểu sâu sắc về mối liên quan giữa lối sống bản thân với các vấn đề môi trường và
biến đổi khí hậu. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ các bạn sinh viên có nhận thức về việc áp dụng hành
động xanh vào lối sống hằng ngày. [3]
Mọi hoạt động của con người trên Trái đất đều tiêu tốn tài nguyên thiên nhiên theo
nhiều cách khác nhau, từ trực tiếp qua ăn uống hay gián tiếp qua việc sử dụng năng lượng,
mua sắm vật dụng. Không ai có thể sống trên trái Đất mà không để lại tác động nào đến
hành tinh. Chất lượng cuộc sống của con người phụ thuộc vào khả năng của hệ sinh thái
cung ứng tài nguyên, vào sức khỏe hệ sinh thái và việc con người đang khai thác quá mức
tài nguyên. Nhưng chúng ta còn ít sử dụng những thước đo định lượng để chứng minh mức
độ ảnh hưởng của cá nhân đến hệ sinh thái.
Gần đây, trên thế giới đã nghiên cứu thí điểm sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau
để đo đạc việc sử dụng tài nguyên, tính toán mức độ ảnh hưởng của mỗi quốc gia đến trái
đất. Một trong những phương pháp được đưa ra để định lượng ảnh hưởng con người đến
1. ThS, Khoa KHTN&KT, Trường Đại học Quảng Nam
2. ThS, Phòng QLKH&ĐN, Trường Đại học Quảng Nam
30
ĐÁNH GIÁ DẤU CHÂN SINH THÁI...
môi trường là dấu chân sinh thái. Đây là phương pháp đánh giá và định hướng nhu cầu của
con người, điều này giúp ta xác định được điểm ngưỡng nhu cầu – mức nhu cầu con người
được thỏa mãn mà không làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Phương pháp dấu chân sinh thái
được sử dụng như một công cụ để so sánh nhu cầu của con người với sức tải sinh học – khả
năng tái tạo tài nguyên và hấp thu chất thải của Trái đất, bằng cách chuyển đổi các diện tích
có khả năng cung cấp năng suất sinh học sang đơn vị chuẩn hecta toàn cầu.
Hiện nay, một bộ phận sinh viên (SV) nói chung và ở trường Đại học Quảng Nam nói
riêng vẫn có hành vi không tốt cho môi trường như vứt rác bừa bãi, chưa phân loại rác và tiết
kiệm năng lượng[5] Vì vậy, việc tính toán dấu chân sinh thái để các bạn sinh viên nhìn lại
mức độ ảnh hưởng của chính mình đến môi trường, là giải pháp quan trọng để hạn chế dấu
chân sinh thái (DCST) của bản thân lên Trái Đất.
2. Nội dung
2.1 Tổng quan về dấu chân sinh thái
Mỗi người đều có một dấu chân sinh thái khác nhau. Dấu chân sinh thái là một thước
đo nhu cầu về diện tích đất và nước có khả năng cho năng suất sinh học cần thiết để cung
cấp cho các nhu cầu trong cuộc sống của con người (thực phẩm, gỗ, năng lượng, bề mặt xây
dựng cơ sở hạ tầng, diện tích hấp thụ CO
2
, khả năng chứa đựng và đồng hóa chất thải). Con
số này được tính bằng đơn vị héc-ta toàn cầu (global hectare). [8] Con người hiện nay đều
đang sử dụng quá lượng tài nguyên thiên nhiên mà Trái Đất có thể cung cấp cũng như tái tạo.
Công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu và công bố về dấu chân sinh thái vào năm
1992 của nhà khoa học William Rees thuộc trường Đại học British Columbia: “Dấu chân
sinh thái và sức chịu tải môi trường bị chiếm dụng: Những vấn đề phát sinh sau quá trình
kinh tế hóa đô thị”. Sau đó, Mathis Wackernagel đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển thêm
về khái niệm dấu chân sinh thái và phương pháp luận tính toán. Thông qua các nghiên cứu,
tác giả đã đề xuất công cụ, cách tính toán dấu chân sinh thái và coi đây là một công cụ, một
phép so sánh nhu cầu của con người; khả năng của sinh quyển để tái tạo nguồn lực và cung
cấp dịch vụ cho đời sống của con người. [6]
Tổng DCST của nhân loại trên toàn thế giới năm 2000 là 2.57 gha/người, năm 2010 là
2.87 gha, năm 2014 là 2.84 gha trong khi đó sức chịu tải sinh học của thế giới tương đương
với 1.8 gha đầu người. Ở cấp độ toàn cầu, một nửa dấu chân sinh thái toàn cầu là do sự đóng
góp của 10 quốc gia hàng đầu, trong đó hai quốc gia đóng góp nhiều nhất là Mỹ và Trung
Quốc, chiếm tỷ lệ sử dụng tương ứng là 21% và 24% sức chịu tải sinh học của Trái đất. Ở
cấp độ khu vực, khu vực Bắc Mỹ có mức thâm hụt sinh thái cao nhất (3,05 gha bình quân
đầu người), tiếp theo là Châu Âu (1,48 gha bình quân đầu người) và châu Á (0,79 gha bình
quân đầu người). Châu Đại Dương có dấu chân sinh thái cao hơn (7,02 gha bình quân đầu
người). Theo chương trình môi trường liên hợp quốc năm 2015 đã chỉ rõ dấu chân sinh thái
hiện nay gấp 1.5 lần khả năng của trái đất. Trong 35 năm tới, nếu dân số toàn cầu không
ngừng tăng và nếu nhu cầu tiêu dùng, hình thức sản xuất duy trì như hiện nay, chúng ta cần
3 trái đất để đảm bảo nhu cầu sống của con người. [4]
Theo Living Planet Report, dấu chân sinh thái của Việt Nam năm 2003 là 0.91 gha/
31
TRIỆU THY HÒA, TRƯƠNG VĂN THÀNH
người, năm 2011 là 1.4 gha/người và 1.62 gha/ người năm 2015. Xu hướng này chắc chắn
sẽ tiếp tục tăng lên nếu không có những giải pháp thích hợp.[2]
Dấu chân sinh thái đã được ứng dụng cho nhiều mục đích khác nhau tại các quốc gia
cũng như tổ chức quốc tế. Hiện nay, một số quốc gia đang nghiên cứu tiềm năng áp dụng
dấu chân sinh thái trong quy hoạch, chiến lược hoặc phục vụ cho công tác quản lý. Liên
minh Châu Âu cũng đã bắt đầu nghiên cứu tiềm năng áp dụng công cụ dấu chân sinh thái
trong việc theo dõi, giám sát ảnh hưởng môi trường từ quá trình sử dụng tài nguyên thiên
nhiên, trong đó tập trung vào phân tích tiềm năng áp dụng công cụ này và các công cụ đánh
giá khác có liên quan khi sử dụng đánh giá trong chiến lược về sử dụng bền vững tài nguyên
thiên nhiên.
Kết quả ứng dụng dấu chân sinh thái cho biết những mối quan hệ tương hỗ giữa sử
dụng tài nguyên, tăng trưởng kinh tế, dân số. Việc ứng dụng công cụ dấu chân sinh thái cho
thấy khả năng ứng dụng hiệu quả dấu chân sinh thái là cơ sở để hoạch định chính sách, quy
hoạch về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường cũng như là một công cụ truyền thông,
giáo dục và nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên và môi trường. [4].
Trên phạm vi quy mô quốc gia và khu vực, Mạng lưới Dấu chân Toàn cầu (GFN) đã
đề xuất 5 thành phần để tính toán DCST bao gồm: trồng trọt và chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy
sản, xây dựng và phát thải carbon. Phương pháp tính DCST gồm: Bước 1: Thu thập dữ liệu,
các số liệu về năng suất trung bình các lĩnh vực sử dụng tài nguyên và hệ số phát thải cácbon
trung bình; Bước 2: Tính toán Dấu chân sinh thái (EF) theo công thức sau:
EF= P/Y
N
x EQF
Trong đó: EF (gha): dấu chân sinh thái, tổng EF các lĩnh vực.
P (tấn): tổng sản lượng, tổng phát thải của tỉnh, tính theo từng lĩnh vực.
Y
N
(tấn/ha): năng suất trung bình cả nước, tính theo từng lĩnh vực.
EQF: Hệ số quy đổi diện tích từ ha sang gha.
Đối với mỗi cá nhân, phương
pháp tính DCST chỉ mang tính chất
ước lượng tương đối để mỗi cá nhân
nhận thấy mức độ tác động của mình
đến trái đất. Tổ chức Global Action
Plan đã xây dựng phiếu điều tra để
khảo sát chỉ số dấu chân sinh thái
trong chương trình Sống Xanh tại
Việt Nam. Phương pháp tính dấu
chân sinh thái dựa trên các yếu tố
theo hình 2.1 như sau:
Vì vậy, bảng đo về dấu chân
sinh thái của cá nhân được thiết kế gồm 6 lĩnh vực, thể hiện qua: nhà ở, năng lượng, giao
thông, thực phẩm, tiêu dùng nước và giấy, rác thải.
Hình 2.1. Các yếu tố tính dấu chân sinh thái
32
ĐÁNH GIÁ DẤU CHÂN SINH THÁI...
2.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp sử dụng phiếu điều tra: Để lượng hóa và đánh giá sự tác động của
mỗi cá nhân sinh viên đến môi trường trái đất, chúng tôi nghiên cứu đánh giá dấu chân sinh
thái thông qua phiếu điều tra. Phương pháp này được kế thừa từ tổ chức Global Action Plan
trong chương trình Sống Xanh tại Việt Nam. Cỡ mẫu được xác định theo công thức Slovin
(1984): n = N/(1 + Ne2)
Trong đó: N: tổng thể mẫu
n: số mẫu cần nghiên cứu
e: sai số cho phép.
Áp dụng công thức trên với e = 1%, số lượng mẫu trong nghiên cứu chúng tôi chọn
được làm tròn là 90 phiếu. Đối tượng nghiên cứu là sinh viên thuộc 3 lớp DT17SGT01,
DT17SGT02, DT17SGT03. Thông tin được thu thập trong sinh viên được thực hiện trước
và sau khi tổ chức các hoạt động trải nghiệm.
- Phương pháp trải nghiệm: Tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho các bạn sinh viên
như tổ chức tuyền thông về giảm thiểu rác thải và tiết kiệm tài nguyên; Ủ rác hữu cơ thành
phân bón hữu cơ, trồng cây và dọn dẹp vệ sinh ở vườn trường. Các hoạt động trên giúp nâng
cao nhận thức, thói quen trong sinh viên về bảo vệ môi trường. Sinh viên biết hành động cụ
thể để bảo vệ môi trường và thái độ yêu mến môi trường hơn. Đặc biệt, sau này các bạn sinh
viên sư phạm sẽ lan tỏa ý thức bảo vệ môi trường đến học sinh trong tương lai.
2.3 Kết quả nghiên cứu
2.3.1 Chỉ số dấu chân sinh thái của sinh viên ngành Tiểu học trường Đại học Quảng
Nam
Để xác định mức độ ảnh hưởng của sinh viên đến môi trường, chúng tôi đã tiến hành
điều tra dấu chân sinh thái của 90 sinh viên thuộc 03 lớp Tiểu học. Kết quả thu được thể hiện
qua bảng 2.1:
Bảng 2.1. Bảng đo dấu chân sinh thái của sinh viên Tiểu học
Lớp N
Giá trị DCST (gha)
Chỉ số trung
bình
0 – 1.8 1.8 – 2.6 >