Từ ngay sau 1995, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định về BHXH quy định và hoàn thiện dần các quy chế quản lí cũng như hoạt động của ngành nói chung và của tài chính BHXH nói riêng. Đây chính là nền tảng, là định hướng quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Hơn nữa trong quá trình hoạt động hệ thống pháp lí của BHXH Việt Nam luôn được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội. Hệ thống BHXH Việt Nam ngày càng phát triển với số người tham gia BHXH tăng, năm 1995 mới có 2.275.998 người tham gia BHXH thì tính cho đến cuối năm 2004 số người tham gia đã lên tới 6.344.508 người (tăng gần 3 lần).Năm 2008,số người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đạt trên 40,7 triệu người (tăng 7,4% so với năm 2007) với tổng số thu đạt trên 39.715 tỷ đồng, trong đó BHXH bắt buộc đạt 38.057 tỷ đồng; Chi BHXH, BHYT là: 44.662 tỷ đồng, trong đó chi từ ngân sách trên 23.718 tỷ đồng, chi từ quỹ BHXH 20.944 tỷ đồng. Như vậy là chính sách đổi mới là hoàn toàn phù hợp và phát huy được hiệu quả hoạt động. Điều này thể hiện trong kết quả đạt được trong mọi mặt, song trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập đến khía cạnh quản lí tài chính của BHXH Việt Nam.
9 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đánh giá cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
III. ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ QUẢN LÝ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Những kết quả đạt được.
1.1. Hình thành hệ thống pháp lí làm cơ sở cho cơ chế quản lí tài chính
BHXH:
Từ ngay sau 1995, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định về BHXH quy định và hoàn thiện dần các quy chế quản lí cũng như hoạt động của ngành nói chung và của tài chính BHXH nói riêng. Đây chính là nền tảng, là định hướng quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Hơn nữa trong quá trình hoạt động hệ thống pháp lí của BHXH Việt Nam luôn được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội. Hệ thống BHXH Việt Nam ngày càng phát triển với số người tham gia BHXH tăng, năm 1995 mới có 2.275.998 người tham gia BHXH thì tính cho đến cuối năm 2004 số người tham gia đã lên tới 6.344.508 người (tăng gần 3 lần).Năm 2008,số người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đạt trên 40,7 triệu người (tăng 7,4% so với năm 2007) với tổng số thu đạt trên 39.715 tỷ đồng, trong đó BHXH bắt buộc đạt 38.057 tỷ đồng; Chi BHXH, BHYT là: 44.662 tỷ đồng, trong đó chi từ ngân sách trên 23.718 tỷ đồng, chi từ quỹ BHXH 20.944 tỷ đồng. Như vậy là chính sách đổi mới là hoàn toàn phù hợp và phát huy được hiệu quả hoạt động. Điều này thể hiện trong kết quả đạt được trong mọi mặt, song trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập đến khía cạnh quản lí tài chính của BHXH Việt Nam.
1.2. Hình thành quỹ BHXH được quản lí tập trung và độc lập với NSNN.
Trước đây quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa và hầu như không có thu, nguồn chi trả cho các chính sách phụ thuộc vào NSNN. Hiện nay BHXH đã hình thành nên quỹ BHXH, độc lập với NSNN. Thu BHXH từ hai đối tượng là người lao động và người sử dụng lao động với quy định trích nộp theo % lương của người lao động và quỹ lương của doanh nghiệp. Hoạt động thu chi được thực hiện tương đối thuận lợi chi phí thấp mà hiệu quả công việc cao. Việc phân cấp thu chi theo ba cấp, thu bằng chuyển khoản, thực hiện chi trả thông qua đaị lí là rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Mức chi BHXH dựa trên những căn cứ thực tế, mức lương tối thiểu tính làm căn cứ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao động.
Tỉ lệ hưởng BHXH Việt Nam là tương đối cao so với các nước trên thế giới thể hiện chức năng phân phối lại thu nhập của BHXH. Quỹ BHXH hiện nay luôn tăng trưởng qua các năm, quỹ đang thay thế dần các khoản chi với tỉ trọng chi từ quỹ BHXH tăng, giảm tỉ trọng chi từ NSNN. Việc ra đời và phát triển quỹ BHXH Việt Nam là bước ngoặt lớn trong sự phát triểm của ngành BHXH, đánh dấu sự chuyển biến về cơ chế quản lí.
1.3 . Công tác thu được phân cấp, tổ chức thu hợp lí an toàn qua hệ thống tài khoản thu BHXH Việt Nam.
Cấp Trung ương, cấp khu vực, cấp cơ sở là ba phân cấp quản lí của hệ thống BHXH Việt Nam dựa trên phân cấp hành chính. Trên cơ sở phân cấp này hoạt động thu, chi của BHXH được triển khai rộng khắp cả nước. Việc thực hiện thu chủ yếu là thông qua chuyển khoản từ tài khoản của doanh nghiệp vào tài khoản thu BHXH lập tại Kho bạc Nhà nước, hay ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam. Hình thức thu nộp trên vừa đảm bảo tính an toàn, chính xác lại giúp cho các doanh nghiệp và cơ quan BHXH thực hiện dễ dàng. Kết quả là số thu của BHXH Việt Nam năm sau luôn tăng hơn năm trước, giảm tình trạng nợ đóng, trốn đóng, chậm đóng. Từ đó quỹ BHXH được ổn định, thực hiện theo đúng kế hoạch quản lí, bảo tồn và tăng trưởng quỹ, đảm bảo được khả năng chi trả của quỹ BHXH.
1.4. Quỹ đã có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, giảm được nhược điểm của cơ chế quản lí PAYGO ( tức là việc trả tiền trước cho chi trả của mình)
Từ sau 1997 BHXH Việt Nam thực sự có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Đây là một hoạt động đóng vai trò vị trí thực sự quan trọng không những làm tăng thu mà còn góp phần bảo toàn khả năng chi trả của quỹ BHXH. Tuy thu từ đầu tư chưa cao song đảm bảo an toàn, không để xảy ra thất thoát, nó đã thể hiện sự đúng đắn trong quản lí tài chính BHXH. Đặc biệt như điều kiện nước ta hiện nay chỉ số giá tiêu dùng tương đối cao (tỉ lệ lạm phát cao) có thể dẫn tới việc Nhà nước phải quy định lại mức lương tối thiểu. Như vậy nếu không có sự đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì sự bù thiếu cho những chênh lệch khi nộp và khi hưởng là không có. Hơn nữa, hoạt động đầu tư còn mang lại không những lợi ích về mặt kinh tế mà cả về mặt xã hội. Các dự án đầu tư có thể mang đến việc làm cho nhiều lao động thất nghiệp giảm gánh nặng cho xã hội ... . Việc đầu tư đã được thực hiện theo đúng danh mục đầu tư, đúng hạn mức đầu tư và đảm bảo an toàn, tăng trưởng quỹ BHXH góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho các chế độ.
1.5.Thực hiện chi trả các chế độ vừa nhanh chóng kịp thời, vùa đảm bảo tính chính xác.
Cùng với việc đẩy mạnh công tác đôn đốc các đơn vị thực hiện việc trích nộp tiền BHXH để đảm bảo quyền lợi lâu dài và hợp pháp cho người lao động, từ đầu năm đến nay Bảo hiểm xã hội đã thực hiên chi trả chế độ kịp thời cho các đối tượng tham gia BHXH.
Thực hiện chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng đúng kỳ, đủ số, đúng chính sách hiện hành, đảm bảo an toàn nguồn kinh phí; xây dựng qui trình giải quyết hưởng chế độ BHXH rút ngắn được thời gian phù hợp với từng chế độ, giảm thiểu các giấy tờ, thủ tục không cần thiết cho người lao động và đơn vị, thực hiện chi trả khám chữa bệnh kịp thời, đúng qui định và đúng đối tượng.
2. Những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân.
2.1. Việc số người tham gia còn ít đặc biệt là tình trạng trốn tham gia, trốn đóng, nợ đọng phí BHXH còn rất phổ biến.
* Hiện nay theo quy định thì số lao động bắt buộc tham gia là rất lớn song số người tham gia BHXH tính đến thời điểm này là chưa cao. Tình trạng trốn tham gia BHXH của các đối tượng, đặc biệt là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, những công ty tư nhân, cổ phần, trách nhiệm hữu hạn vừa và nhỏ là tương đối cao. Thứ nhất là tình trạng khai giảm, khai thiếu số lao động trong doanh nghiêp, trường hợp thứ hai là không tham gia hoàn toàn.
Tồn tại tình trạng trên một phần do sự thiếu tích cực của chủ sử dụng lao động, một phần do sự quản lí chưa chặt của cơ quan ban ngành có liên quan. Chưa có sự phối kết hợp cần thiết giữa các đơn vị quản lí, bên cạnh đó chế tài pháp luật cũng chưa có những biện pháp sử phạt nghiêm minh đối với tình trạng này, do những người công nhân này làm một thời gian ngắn rồi lại bỏ việc vì nhiều lý do khác nhau do đó rất khó cho việc tham gia bảo hiểm.
* Các doanh nghiệp hiện nay trong việc đóng phí BHXH vẫn diễn ra tình trạng khai giảm quỹ lương của doanh nghiệp để trốn đóng . Đặc biệt hơn là tình trạng nợ đọng, nợ chậm đóng còn nhiều. Tình trạng trên còn tồn tại là do cơ quan BHXH Việt Nam chưa có những biện pháp quản lí hữu hiệu, các quy định về xử phạt là chưa thực sự nghiêm khắc.
2.2.Công tác đầu tư bảo tồn và phát triển quỹ tuy đã có thu nhưng còn hạn chế lợi nhuận từ đầu tư còn rất nhỏ.
* Vấn đề ở đây là hiệu quả đồng vốn bỏ ra là chưa cao, lí do chủ yếu các hoạt động đầu tư còn theo chỉ định của Chính phủ. Các quy định về hạng mục đầu tư còn hạn hẹp, hình thức đầu tư đơn điệu. Các ngân hàng được phép vay mới chỉ bó hẹp trong các ngân hàng Nhà nước: NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, NH Công thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và Phát triển. Trong quản lí đầu tư BHXH Việt Nam chưa có sự phân định trách nhiệm rõ ràng, chưa có bộ phận chuyên môn quản lí nghiệp vụ này mà chỉ mới giao cho Ban Kế hoạch- tài chính đảm nhiệm.
* Hoạt động đầu tư hiện nay vẫn hoàn toàn thụ động, chưa tiếp cận được với những dự án lớn, lợi nhuận cao. Hiện nay lãi suất trung bình là rất thấp, nếu cứ như hiện nay thì các biện pháp đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ chưa đủ để khác phục sự mất cân đối lâu dài của quỹ BHXH trong tương lai. Tình hình tài chính khu vực mới ổn định trở lại sau khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997, nền kinh tế nước ta còn kém khả năng hấp thụ vốn đầu tư. Bên cạnh đó thị trường tài chính Việt Nam chưa thực sự ổn định, tỷ lệ lạm phát ở mức tương đối cao. Nhà nước hiện nay đang thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi thấp.
2.3. Trên thực tế còn một số hạn chế khác như:
- Mặc dù bộ luật lao động ở nước ta quy định có hai loại hình BHXH nhưng mới chỉ có điều lệ về loại hình BHXH bắt buộc còn BHXH tự nguyện vẫn mang tính tính chất áp dụng thử nghiệm.
- Hiện vẫn tồn tại sự lạm dụng quỹ bảo hiểm thông qua chi trả cho tai nạn giao thông; giá thuốc trong quản lý và cung ứng qua BHXH còn gây nhiều áp lực, đúng sai chưa rõ; đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội mới còn hạn chế...
- Đối tượng chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc còn là một số lượng không hề nhỏ số đơn vị và đối tượng cũng như mức tiền lương đóng BHXH bắt buộc năm sau cao hơn năm trước, chuă đánh giá đúng mức tình hình thực hiện luật BHXH- Thực tế, tổng quỹ thu bảo hiểm xã hội bắt buộc năm sau đều cao hơn năm trước nhưng thấp hơn tốc độ điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu và tổng số đối tượng tăng thêm. Điều đó cho thấy, việc thu quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc vẫn thụ động, phụ thuộc vào việc đăng ký của tổ chức, doanh nghiệp chứ cơ quan quản lý chưa kiểm soát được.
- việc xác định đơn vị có sử dụng lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội giữa các tỉnh là không thống nhất. Hiện, có tỉnh dựa vào số liệu của Sở kế hoạch đầu tư cung cấp rồi tiến hành rà soát, có tỉnh lại dựa vào số liệu của ngành thuế, tỉnh thì dựa trên số liệu thống kê chung, cũng có tỉnh thì tổ chức phối hợp rà soát, điều tra ... nhưng nhìn chung vẫn trên tinh thần thụ động
- Các đơn vị bảo hiểm xã hội địa phương chỉ nắm và xác định được khá chính xác số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, còn đối với các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước, thì chưa xác định được đầy đủ và không quản lý được.. Thậm chí việc trốn đóng bảo hiểm xã hội xảy ra cả trong khu vực nhà nước
- Một bất cập nữa được Ủy ban về các vấn đề xã hội chỉ ra là tốc độ tăng thu quỹ bảo hiểm xã hội thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng chi.xu hướng tất yếu sẽ dẫn đến phải lấy vào quỹ kết dư để bảo đảm cân đối thu chi hằng năm, về lâu dài sẽ dẫn tới mất an toàn quỹ bảo hiểm xã hội
- Chưa tìm được hướng đầu tư tối ưu để sinh lời cũng là một trong những hạn chế đáng kể trong vấn đề sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Hàng năm, số vốn tồn của quỹ này khá cao nhưng chưa được sử dụng tối đa cho các mục đích sinh lợi.- Tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội đã trở nên trầm trọng ở một số tỉnh, thành phố có số lượng doanh nghiệp lớn, tập trung nhiều khu công nghiệp, ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, đến chính sách an sinh xã hội lâu dài.
3.Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu nộp quỹ BHXH
1. Tăng cường công tác quản lý thu nộp BHXH.
- Kiểm soát chặt chẽ thu, chi BHXH là hết sức cần thiết. Do đó công tác thu phải được hoàn chỉnh từng bước bằng việc theo dõi danh sách đối tượng tham gia đóng bảo hiểm xã hội, biến động của đối tượng và mức đóng góp. Cần tiếp tục nghiên cứu, cải tiến phương pháp quản lý thu với các biện pháp đồng bộ.
- Trên cơ sở thực hiện đổi mới sự chỉ đạo điều hành nền kinh tế - xã hội của chính phủ, BHXH Việt Nam cũng cần phải đổi mới sự chỉ đạo, điều hành thì mới đạt được kết quả như mong muốn. Sự đổi mới ở đây tức là sự phân công, phân cấp rõ về chức năng, nhiệm vụ giữ cơ quan BHXH ở trung ương và BHXH ở các tỉnh, thành phố nhằm nâng cao trách nhiệm, chiến lược quản lý và phục vụ ngày càng tốt hơn nhưng vẫn đảm bảo thống nhất về hướng dẫn chính sách, chế độ BHXH của Nhà nước và sự chỉ đạo về nghiệp vụ của cơ quan BHXH Việt Nam.
- Trong những năm tới cần tăng cường hoàn chỉnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng tin học vào công tác quản lý BHXH, tăng cường công tác thi đua, thanh tra và kiểm tra, tham gia vào phát triển kinh tế, bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội.
- Xuất phát từ phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới, vấn đề hoàn thành hệ thống pháp luật về BHXH là rất cần thiết và cần thực hiện từng bước cụ thể:
- Phải sắp xếp, rà soát lại toàn bộ các văn bản pháp quy về hoạt động BHXH trước đây và hiện hành với mục đích loại bỏ hoặc điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với nhu cầu quản lý trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
- Nâng cáo khả năng thực thi của các văn bản pháp lý trong lĩnh vực BHXH. Muốn thực hiện được những điều này, ngoài sự đóng góp xây dựng và hoàn thiện cúa các chuyên gia, các bộ có kinh nghiệm trong và ngoài ngành thì việc học tập kinh nghiệm xây dựng khung pháp lý trong các văn bản quy định về BHXH của các nước khác cũng là việc nên làm.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực BHXH cần khần trương soạn thảo Luật BHXH để có thể trình quốc hội trong thời gian sớm nhất và đưa luật vào áp dụng điều chỉnh, hướng các hoạt động BHXH đi theo đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
3. Công tác thông tin tuyên truyền về BHXH.
Việc tuyên truyền, giải thích nhằm nâng cao nhận thức về BHXH không chỉ là công việc của ngành BHXH mà còn là nhiệm vụ chung của các ngành, các cấp khác và của toàn xã hội. Nó bao gồm những nội dung sau:
- Phải xác định rõ nội dung tuyên truyền. Phải tuyên truyền, giải thích về bản chất, nội dung của chính sách BHXH. Từ đó, giải thích về nội dung của chính sách BHXH.
- Mặt khác, cũng phải tuyên truyền và giới thiệu cho họ về nội dung các chế độ BHXH mà người lao động tham gia được hưởng. Ngoài ra vấn đề giải quyết các vướng mắc của người lao động trong quá trình thực hiện các chế độ BHXH, việc phản ánh tâm tư, nguyện vọng, các kiến nghị bổ sung sửa đổi những bất hợp lý về chế độ BHXH cũng hết sức cần thiết và bổ ích.
4. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hiện đại hóa hoạt động ngành BHXH.
Việt Nam trên bước đường thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước cần nhanh chóng tích cực đổi mới hiện đại hóa các mặt, trong đó đặc biệt quan tâm là công tác đào tạo nguồn nhân lực. Đối với ngành BHXH, trong thời gian tới cần cải tiến và đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực theo các hướng sau:
- Cần đào tạo bổ sung, đào tạo nâng cao, đặc biệt là đào tạo các chuyên gia giỏi về tin học, nhất là về phần mềm, các chuyên gia về chính sách BHXH, các chuyên gia về pháp lý, các chuyên gia về tính toán BHXH, các cán bộ kiểm tra. Từ đó nâng cao trình độ về chuyên môn và chính trị cho cán bộ đảng viên, rèn luyện phẩm chất đạo đức người công chức để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự yêu ngành, yêu nghề, có trách nhiệm với công việc được giao và vì sự nghiệp chung của BHXH.
- Công tác tuyển dụng cán bộ cần xem xét đến trình độ, học vấn và đặc biệt là những kiến thức đó phải phù hợp với công tác ngoại giao. Ngoài ra cần có các cơ chế đãi ngộ thỏa đáng để thu hút những người có phẩm chất đạo đức tốt và năng lực chuyên môn giỏi.
5. Mở rộng đối tượng tham gia và phạm vi BHXH
- Mục tiêu lâu dài của BHXH là moi người đều được tham gia BHXH nhằm thực hiện bình đẳng xã hội giữa các thành phần kinh tế.
- Để cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH, ngành BHXH cần sớm ban hành luật BHXH Việt Nam với những điều khảon áp dụng chung cho tất cả các đối tượng lao động, nhanh chong xây dựng một cơ chế gọn nhẹ thông thoáng, thuận tiện. Đồng thời từng bước hoàn thiện và bổ sung các chế độ BHXH, đa dạng hóa các hình thức và loại hình tham gia bảo hiểm xã hội.
6. Nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi
Quỹ BHXH hoạt động theo nguyên tắc thu trước – chi sau, nên phải có trách nhiệm bảo đảm an toàn và phát triển quỹ trong một cơ chế luật pháp ít rủi ro nhất.
- Trước hết, cần tạo lập những quy định mang tính pháp lý và cơ chế đầu tài chính để ngân quỹ của BHXH có thể tham gia đầu tư tài chính theo phương thức an toàn, ít rủi ro nhất và trong thị trường cso sự đảm bảo, đặc biệt là việc duy trì và kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất tránh hiện tượng số tiền đầu tư từ ngân quỹ nhàn rỗi lại nhận được mức lãi suất thấp hơn mức lạm phát hàng năm.
- Thứ hai, cần tính toán mọt cách có căn cứ khoa học sỗ ngân quỹ tối đa có thể dùng để đầu tư tài chính, thời hạn cần thiết và an toàn cho đầu tư. Cơ quan BHXH nên có những kiến nghị với chính phủ trong việc mở rộng các lĩnh vực đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả.
7.Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý hoạt động là một trong những mực tiêu hàng đầu, và đa dạng được các nhà quản lý quan tâm. Để ngày càng ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH, cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
- Coi trọng hơn nữa quan hệ giữa các yếu tố cần thống nhất trong nghiệp vụ thu, chi, kế toán, chế độ chính sách. Từ đó cùng với những đổi mới về kỹ thuật, công nghệ, xây dựng được hệ thống xử lý số liệu BHXH có chiến lược, hiệu quả. Muốn vậy, phải có sự phối hợp dôngd bộ từ trung ương đến địa phương, giữa các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố với nhau.
- Để có một mạng máy tính mạnh cho hệ thống BHXH, chúng ta phải mạnh dạn ứng dụng kĩ thuật hiện đại bằng việc quan tâm đầu tư trang bị máy móc, thiết bị hiện đại cho toàn hệ thống, đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu. Điều quan trọng và cần làm trước hết là xây dựng cho được hệ thống các tiêu chuẩn trong các nghiệp vụ BHXH. Chẳng hạn: Chuẩn hóa các mã quản lý, danh mục các báo biểu, các chỉ tiêu thống kê và phương pháp tính.
- Ngoài ra, còn phải đầu tư cho các phần mềm đáp ứng nhu cầu tự động hóa có khả năng thích ứng với sự thay đổi về chế độ chính sách. Tương lai gần, hệ thống thông tin BHXH Việt Nam cần được nối mạng toàn ngành, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển với các ngành nghề khác. Đồng thời thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, nâng cao chiến lược hoạt động BHXH, góp phần đưa ngành BHXH Việt Nam lên một tầm cao mới.
8- Hợp tác trong nước và quốc tế về BHXH
Với đặc thù là hoạt động mang tính xã hội và nhân đạo nên việc hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước là hoạt động hết sức cần thiết đối với cơ quan bảo hiểm xã hội. Trong điều kiện mới được thành lập của BHXH Việt Nam, cộng với sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước còn lớn cho quỹ BHXH, chính vì vậy cần tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và đẩy mạnh hơn nữa hợp tác với các cơ quan, đoàn thể trong nước tạo điều kiện cho thực hiện các hoạt động BHXH, lao động quốc tế với mục đích trao đổi, đào tạo cán bộ, chuyên gia để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm về công tác BHXH
Kết luận:
Vậy qua việc tìm hiểu nghiên cứu đề tài ta thấy việc quản lý thu nộp và cơ chế quản lý của nước ta hiện nay có rất nhiều mặt tích cực góp phần rất to lớn vào sự nghiệp xây dưng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhưng bên cạnh đó còn có rất nhiều mạt hạn chế cần được khắc phục . Đảng và nhà nước ta cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề bảo hiểm xã hội .Đó là việc làm cần thiết đối với một nước đang phát triển như Việt Nam để tăng cường tính đoàn kết toàn dân đem lại sự ổn định cho đất nước .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- iii_1204.doc