1. Ngôn ngữ, ngữ hệ
- Dân tộc Bana có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer và chưa
có chữ viết riêng.
- Ngữ hệ Nam Á.
2. Lịch sử
- Người Bana là một trong những cư dân cổ xưa ở Trường Sơn, trước
kia họ sinh sống chủ yếu ở ven biển các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định,
sau di chuyển di chuyển lên Tây Nguyên sinh sống ở các địa hình khác
nhau.
- Cư trú chủ yếu ở vùng Trung Trung Bộ, ven dải Trường Sơn và Tây
Nguyên, các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Bình Định, Phú Yên
- Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong
các lĩnh vực: văn hóa, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.
43 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Dân tộc bana, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững cây le uốn cong (breng) tạo
thành một hàng rào xung quanh chỗ nguồn mạch ở đầu máng nước
(tờ-nang đác). Dân làng cùng nhau dọn dẹp con đường từ làng ra bến
nước cho sạch sẽ, phong quang; vài phụ nữ lo nấu ăn; vài người đàn
ông thịt lợn, thịt dê và chuẩn bị lễ vật cho lễ cúng sẽ diễn ra vào khoảng
2 giờ chiều hôm đó.
Khi việc chuẩn bị đã hoàn tất, ông chủ làng diện áo và khố đi lên nhà
rông lấy tiết lợn, tiết dê trộn với rượu cần và nước lấy từ nguồn, rồi
đem tới đầu máng nước, vừa đổ vào máng vừa khấn lên những lời
cầu mong cho nguồn nước của làng không bao giờ cạn, cho bến nước
mãi mãi sạch sẽ,... Lũ trẻ, cả trai lẫn gái, đã đợi sẵn ở đằng cuối máng
nước. Khi già làng cũng xong, chúng thi nhau dùng tay hứng nước và
uống; còn phụ nữ các gia đình thì hứng lấy nước đem về nhà nấu cơm,
với niềm tin thần nước (giàng đắc) phù hộ cho gia đình mình.
Trong khi già làng làm lễ tại bến nước, đồ ăn thức uống đã chuẩn bị
được mang đến nhà rông. Món chính để nhắm với rượu thường là thịt
lợn nấu với rau dớn hoặc lá sắn. Kết thúc lễ cúng, già làng quay về
nhà rông; ông ngồi bên ché rượu đã được buộc dựa vào cột chính
trong nhà (ché rượu dành cho già làng – sik krá), cúng mời thần núi,
thần sông, thần lúa, về ăn thịt, uống rượu, đồng thời cầu xin các
thần phù hộ cho nguồn nước của làng không bao giờ cạn, cuộc sống
trong làng yên vui Cúng xong, ông uống một hớp rượu, ăn một
miếng gan lợn, rồi chia số còn lại cho mọi người ăn “làm phép”. Trong
lúc đó, một đoàn nam thanh niên gõ cồng, chiêng đi vòng quanh nhà
rông rồi tiến ra bến nước, sau đó trở lại nhà rông, như cuộc trình diễn
nghi thức mời thần nước về nhà rông dự lễ cúng. Kết thúc lễ cúng bến
nước là việc dân làng ăn uống cộng đồng tại nhà rông. Khách từ các
làng khác cũng đến dự. Khi thức nhắm chế biến từ con lợn lễ vật đã
hết, thanh niên đánh cồng, chiêng đi tới từng nhà xin thịt, gạo và rượu.
Một số người có thể kéo dài cuộc liên hoan cho đến sáng hôm sau.
Đã lâu, ở làng Kon Rbàng không còn duy trì tập tục cúng bến nước
nữa, phần vì làng theo Công giáo nên các nghi lễ tín ngưỡng truyền
thống phai nhạt dần; phần vì số bến nước nhiều lên, mỗi bến nước
chỉ phục vụ những hộ ở gần đó, nghĩa là tính cộng đồng làng đối với
bến nước đã biến đổi, khác xưa.
Lễ cúng đất làng:
Là lễ hội của người Ba Na sống ở Kon Tum và Gia Lai. Dân làng Ba
Na làm lễ cúng đất làng vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 âm lịch khi chuẩn
bị vào vụ sản xuất hoặc khi dọn đến vùng đất mới. Trước hôm dựng
làng đồng bào Ba Na làm lễ kéo dài 2 ngày. Họ khấn các thần linh phù
hộ cho công việc làm ăn thuận lợi, và thông báo cho thần linh biết công
việc làm ăn trong năm mới.
3. Văn học dân gian:
Ca múa dân gian:
- Dân ca: gồm 4 thể loại chính:
+ Hát ru: Do phụ nữ hát khi ru con, giai điệu chậm và mềm mại, nhịp
điệu đơn giản và trùng lặp, nội dung dễ hiểu hướng tới giáo dục, con
ngoan khỏe, lớn lên chăm làm rẫy, dệt vải, yêu thương bố mẹ và là
người tốt.
+ Hát đồng dao: do trẻ em diễn xướng tập thể, vừa đi, vừa hat, vừa
vỗ tay, nội dung nói về các hình ảnh tự nhiên và xã hội ngộ nghĩnh
diễn ra trong cuộc sống hàng ngày.
+ Hát giao duyên: do nam nữ thanh niên diễn xướng trong giao lưu
và tìm hiểu. Nội dung là dùng câu chữ, hình ảnh ẩn dụ để ướm hỏi tình
cảm của nhau, thường là hát ở sân nhà rông, trên nương rẫy hay trong
đám cưới.
+ Hát than thở: dùng để kể lể và thể hiện lòng thương tiếc của người
phụ nữ, thân nhân người chết trong các đám tang và lễ bỏ mả.
- Múa dân gian:
+ Soang là điệu múa phổ biến nhất của người Ba na, chủ yếu là
dùng thân thể (đầu, lưng, eo, hông), cử động của chân tay chỉ là kết
hợp. Đội hình xếp hình tròn hoặc hình vòng cung, chiều vận động là
chiều ngược kim đồng hồ, từ tây sang đông trực tiếp hoặc gián tiếp
diễn tả và tái hiện lại các sinh hoạt sản xuất và xã hội truyền thống đã
và đang diễn ra ở vùng rừng núi của người Ba na.
+ Múa cồng chiêng là sinh hoạt trung tâm nổi bật thu hút sự chú ý
củ tât cả những người tham gia. Có 4 đội, hai đội nam, hai đội nữ, hai
đội nam đánh công chiêng, hai dội nữ dàn hàng ngang sau mỗi đội
nam để múa soang theo tiết tấu của công chiêng. Điệu múa thể hiện
bằng những bước múa, tay nắm tay nhau, lần lượt và liên tiếp đưa ra
đằng trước, đằng sau, kết hợp đôi chân di chuyển tịnh tiến theo tiết tấu
cồn chiêng.
- Âm nhạc dân gian:
+ Âm nhạc Bana là âm nhạc đơn thanh hay đa thanh.
+ Âm nhạc Bana là mô phỏng âm thanh và nhịp điệu nguyên sơ của
thiên nhiên, của rừng núi.
+ Đặc biệt không gian âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên đã được
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.
Văn học dân gian và Hơmon: bao gồm nhiều thể loại khác nhau
như truyện cổ tích, câu đố, tục ngữ, trường ca hơmon.
- Truyện cổ tích phản ánh thế giới quan và triết lí nhân văn của chủ
nhân đã sang tạo ra chúng như đề cao trí thông minh, lên án thói hư
tật xấu, giải thích nguồn gốc các dân tộc, giải thích quan hệ giữa thế
giới người sống với thế giới người chết.
- Thơ ca Bana cũng rất phong phú, nói lên tâm tình của con người
trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên và xã hội.
- Kho tàng tục ngữ của người Bana khá phong phú, nội dung giáo
dục đạo đức con người, kinh nghiệm sống. Nó gián tiếp hình tượng
hóa, ví von bằng những biểu tượng chứ không đề cập một cách trực
tiếp.
- Kho tàng câu đố cũng rất phong phú. Nội dung câu đố vừa nói về
cái cụ thể, vừa nói về cái trừu tượng. Đối tượng ra đố là các hiên
tượng, sự vật trong tự nhiên, các vấn đề quan hệ xã hội, những huyền
thoại, những truyền thuyết của người Bana đều liên quan đến giai đoạn
con người còn sống lẫn với các thần linh, các vị anh hùng văn hóa
(nửa thần), các nhân vật lịch sử với những kỳ tích trong đấu tranh với
thiên nhiên hay với giặc giã.
- Trường ca Hơmon: là đỉnh cao của văn hóa dân gian Bana.
Nội dung: những câu chuyện dài nói về thuở hồng hoang, về chiến
công của các anh hùng dân tộc, anh hùng văn hóa trong việc khai sáng
ra đất trời và muôn loài, đấu tranh chống lại và chiến thắng cái xấu, cái
ác để bảo vệ cái đúng, cái tốt, bảo vệ nhân dân.
Địa diểm và thời gian trình diễn: thường là tại nhà rông hay nhà
dân, vào những buổi tối của tháng nông nhàn.
Thành phần tham gia: gồm người kể chuyện và dân làng.
Nghệ thuật ngôn từ: Hơmon là bài ca dài, lời kể và các đoạn thơ
đan xen lẫn nhau. Ngôn từ mang tính thơ và luôn có vần điệu. So sánh
ví von là thủ pháp đặc trưng đẻ khắc họa y tưởng mà Hơmon muốn
thể hiện.
4. Trò chơi dân gian: Phổ biến là các trò chơi : đuổi bắt (đru đra),
cướp dây, hất đá, nhảy đập nhịp, thả diều, đá cầu, đi cà kheo, đánh
quay, đánh vòng...
V. Văn hóa xã hội
- Điều hành công việc là hội đồng già làng, đứng đầu là Chủ làng. Chức
chủ làng chỉ thấy có ở vùng Kon Tum, họ được coi là gốc của làng, là
người được dân tín nhiệm vì am hiểu phong tục tập quán. Chủ làng ở
đây thường cha truyền con nối, đôi khi do dân cử, nhất là khi không
có người kế thừa, hay vì một lý do nào đó như làm ăn thất bát hoặc
làng luôn gặp vận hạn. Người Bana tin rằng chủ làng là do thần linh
thừa nhận để hướng dẫn dân làng những điều tốt đẹp. Bởi vậy khi làng
gặp vận hạn không hay thì họ tin là thần linh muốn cử người khác thay
thế nên phải bầu lại chủ làng. Các chủ làng là những cụ già có uy tín,
được dân suy tôn, tham gia hội đồng già làng.
- Chủ làng và hội đồng già làng thường điều hành việc sản xuất, chiến
đấu, nghi lễ tôn giáo, dựa trên sự nhất trí của toàn làng.
Buôn làng:
- Làng là từ gọi theo tiếng phổ thông để chỉ một tổ chức xã hội duy
nhất, phổ biến chung trong tất cả các cộng đồng dân tộc bản địa ở Kon
Tum. Mỗi dân tộc có một tên gọi cụ thể riêng: Dân tộc Ba Na gọi là
“Plây”.
- Làng là một tổ chức xã hội nhỏ nhất và cũng là duy nhất, có kết cấu
chặt chẽ, vẫn hành theo cơ chế tự quản. Già làng được chọn là những
người cao tuổi, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, có đạo đức, uy
tín trong cộng đồng làng và mọi thành viên đều chịu sự điều khiển của
già làng.
- Các dân tộc có số lượng người đông như Xơ Đăng, Bana, Giẻ Triêng,
bên cạnh già làng còn có “Hội đồng già làng” là những người đàn
ông có độ tuổi trung niên làm chủ các nóc nhà, được lựa chọn theo tập
quán, nhưng đứng đầu vẫn là “già làng”.
+ Làng được đặt nơi bằng phẳng hoặc ven sông suối. Trước đây, cách
sắp xếp và bố trí nhà cửa trong làng tương đối thống nhất. Các nhà
nằm mặt tập vào nhau, nhà nọ liền kề nhà kia, gần thì có thể bắt ván
qua nhà nhau, xa cũng không quá 50m. Thường thì các làng Bana là
làng đồng hướng. Hướng của làng là hướng của nhà rông và nhà ở,
đó là hướng Nam. Xưa kia, xung quanh làng có một lớp rào bằng tre
vót nhọn. Ở những chỗ xung yếu có thêm lớp chông tre. Mỗi làng có
một cổng chính ở phía Đông và một vài cổng phụ để dân làng đi rừng,
đi rẫy, đi sông suối.
kiểu làng phòng thủ nhằm đối phó với những cuộc đột kích ban đêm
của các làng thuộc dân tộc khác.
+ Làng Bana thường phải di chuyển do nhiều nguyên nhân như dịch
bệnh, hỏa hoạn, bị cướp phá hoặc hết đất canh tác. Trước khi chuyển
làng, già làng phải làm lễ cúng tại nhà Rông xin phép các thần linh và
cầu mong được phù hộ. Sau lễ cúng, già làng và một số thanh niên đi
trước để chọn vùng đất tốt để lập làng. Theo quan niệm truyền thống,
là chổ đất trương đối bằng phẳng, gần sông suối, có nguồn nước ăn,
có rừng làm rẫy. Việc chọn đất gần sông suối ngoài việc đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt của người dân còn nhằm mục đích phòng thủ, lấy sông
suối làm chướng ngại tự nhiên. Trên đường đi tìm đất lập làng, người
ta kiêng nhìn thấy chim pơ lang trước mặt hay kêu gần ở bên tai. Khi
tìm được, người Bana thăm dò ý kiến thần linh bằng nhiều cách khác
nhau như nghe gà trống gáy, bói hạt gạo, bói ốc, nắm đầu gà, đun sôi
trứngngười Bana thường chuyển làng vào mùa khô. Thường thì
người ta chỉ chuyển đồ đạc chứ không chuyển nhà.
+ Nhà Rông được xây dựng cuối cùng, xây xong, người Bana tổ chức
lễ đâm trâu để uống mừng làng mới. Họ lấy gan trâu làm đồ cúng với
mục đích xin các thần linh chứng giám và phù hộ cho làng làm ăn thịnh
vượng.
Về đối ngoại: Chủ làng là người đại diện cho làng trong việc giao
tiếp với các làng khác và đón tiếp khách chung của làng. Chức vụ chủ
làng không phải cha truyền con nối, mà do dân cử. Giúp việc cho chủ
làng là một vài già làng, thường bao gồm 4-5 người đàn ông cao
tuổi.các già làng và chủ làng hợp thành hội đồng già làng.
Về đối nội:
+ Khi trong làng có sự kiện gì thì người chủ làng sẽ tập hơp hội đồng
già làng lại để bàn bạc và tham khảo và thống nhất ý kiến trước khi
quyết định. Trong làng cũng có tòa án phong tục, làm nhiệm vụ xét xử
các vi phạm luật tục hay các việc kiện tụng, tranh chấp liên quan đến
phong tục. Giúp việc cho chủ làng ngoài hội đồng già làng còn có chỉ
huy quân sự, thầy cúng, bà mụ vườn.
+ Họ có tục kết nghĩa giữa hai làng với nhau. Trai gái hai làng cũng
được khuyến khích tìm hiểu nhau và kết hôn với nhau.
+ Quan hệ làng xóm hiện nay là quan hệ bình đẳng. Các già làng vẫn
được kính nể nhưng cán bộ Cách mạng do dân bầu ra là người điều
hành công việc xã hội. Lớp trẻ được học hành, nhà rông không phải là
nơi tập trung phòng thủ hay luận bàn việc tiến công làng khác mà là
nơi hội họp dân làng bàn việc sản xuất và sẵn sàng chiến đấu với giặc
ngoại xâm, và là nơi vui chơi giải trí.
+ Sự giàu có trong làng người Bana thường được so sánh bằng số
lượng chiêng, ché quý trong nhà, đàn trâu ngoài chuồng và số người
ở mướn (Đăm), số người ở tớ (Đích). Tù binh (Mná) bị người Bana
bắt, ít khi được giữ làm Đích. Họ đem bán cho các làng xa. Ngược lại
những người giàu có hay thiếu sức lao động lại thường mua tù binh ở
nơi khác về làm Đích. Những người nghèo khổ trong xã hội Bana cũng
không nhiều. Họ thường thuộc những gia đình neo đơn, con còn nhỏ,
người mồ côi, tàn tật, già nua, không nơi nương tựa.
2. Tổ chức dòng họ:
- Dòng họ Bana gồm các thành viên là con cháu trực hệ của một ông
bà tổ trong một số đời còn nhớ được, thường là 5-6 đời hoặc có thể
hơn.
- Dòng họ bố và dòng họ mẹ có vai trò như nhau và có bình đẳng với
nhau, không phân biệt là con ông bác hay con cô con dì mà nếu ai sinh
ra trước thì người đó là anh hoặc chị. Ở người Bana, các con được
thừa kế gia tài ngang nhau.
3. Tổ chức gia đình:
+ Gia đình Bana mang tính chất song hệ. Trước đây, thường là gia
đình lớn, bao gồm 3-4 thế hệ. Mỗi gia đình lớn cư trú trong một ngôi
nhà dài ngăn thành nhiều buồng cho các cặp vợ chồng và con cái.
Đứng đầu mỗi gia đình lớn là người chủ nhà thường là đàn ông hiếm
khi là phụ nữ, người già có uy tín được mọi người trong gia đình tôn
kính và phục tùng. Các gia đình khá giả đôi khi con có thêm tôi tớ sống.
+ Người Bana ưa thích một gia đình con đàn cháu đống. Họ thường
có tục nuôi con nuôi, tục kết bạn để được nhiều thân thích. Những
thành viên trong gia đình thường lao động chung, ăn chung, có tài sản
chung. Mọi việc được sắp xếp theo sự điều khiển của chủ nhà, có tập
quán phân công lao động theo giới.
+ Trong số tài sản riêng đó, trừ một số như: tiền bạc, trang sức, chiêng,
ché, tấm vải có giá trị, còn những thứ khác như: lương thực, gia súc
được dùng để sử dụng chung trong trường hợp cần thiết. Nếu tài sản
riêng là con lợn thì sử dụng vào lễ hiến sinh, sau đó phần thịt còn lại
được chia cho cả làng, chứ không chỉ chia cho từng căn hộ trong nhà.
Song nếu con lợn đó đổi lấy chiêng, ché thì lại thuộc về người nuôi.
+ Gia đình Bana nghiêng về dòng cha, nhưng không hiếm trường hợp
rể về nhà vợ. Điều đó tùy theo ý muốn của hai gia đình, nhất là phía
vợ. Địa vị xã hội của đàn ông cũng khá rõ rệt. Họ là người đại diện cho
gia đình, giao thiệp với hàng xóm, với khách buôn, điều khiển việc sản
xuất. Nhưng họ không tự quyền mà thường thực hiện sau khi đã có
sự nhất trí của toàn gia đình.
+ Trong gia đình, người già được kính trọng, trẻ em được chiều
chuộng ít bị nặng lời. Con vợ cả, con vợ lẽ, con nuôi, con đẻ không
phân biệt. Việc chia tài sản cũng đồng đều. Trai gái đến tuổi thành niên
thì làm lễ cà răng. Từ đấy là con gái thì ra ngủ ở gian giữa để xa bố
mẹ, là trai thì tới nhà rông cùng bè bạn.
VI. Phong tục tập quán
1.Hôn nhân
Người Bana cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời, việc cưới
xin đều theo nếp cổ truyền. Vợ chồng trẻ ở luân phiên mỗi bên một
thời gian theo thỏa thuận của hai gia đình hai bên, sau khi sinh con
đầu lòng mới làm nhà riêng. Trước đây trai gái Bana khi đến tuổi
trưởng thành (20 đối với nam, 18 đối với nữ), được tự do yêu đương
tìm hiểu lẫn nhau, nhưng quyền quyết định đi đến hôn nhân không
phải không có ảnh hưởng của cha mẹ. Trong thực tế, nhiều khi cha
mẹ can thiệp rất nhiều vào chuyện hôn nhân của con cái. Thậm chí,
trong một số trường hợp, quyết định gả cưới của cha mẹ hoàn toàn
đi ngược lại mong muốn của các con. Chính vì vậy, trong ngôn ngữ
người dân tồn tại hai thuật ngữ hôn nhân. Trong trường hợp trai gái
tự do yêu đương và tìm bạn đời tiến tới hôn nhân, người dân gọi là
chărơihkơ ding (hôn nhân tự chọn); trong trường hợp cha mẹ quyết
định gả bán con theo ý kiến riêng của mình, người dân gọi là mẽ bă
pơ giao ăn (cha mẹ gả bán). Việc gả bán con theo ý riêng của cha mẹ
thường chỉ xảy ra giữa gia đình giàu có với gia đình nghèo vì lí do
kinh tế, hay sắc đẹp. Các gia đình tương đương về điều kiện kinh tế,
về địa vị xã hội thì con cái của họ phần lớn tự do tìm hiểu để đi tới
hôn nhân. Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời, lựa chọn thông gia dựa trên
sự so sánh giàu nghèo đã ít còn được đặt ra như trong quá khứ. Sự
chênh lệch về tuổi tác giữa nam và nữ cũng không phải là điều quan
trọng. Vấn đề mang tính quyết định để đi tới hôn nhân trong thời điểm
hiện tại là trai gái phải yêu thương nhau. Tiêu chuẩn hàng đầu để các
chàng trai, cô gái lựa chọn bạn đời là đạo đức, sức khỏe, và tính cần
cù, siêng năng, thạo việc.
Nguyên tắc hôn nhân của người Bana đã dịch gần hôn nhân người
Việt và hệ thống gia tộc ngang cũng như dọc. Nam nữ được tự do hôn
nhân nhưng phải được bố mẹ đồng ý. Xã hội Bana đã nghiêng sang
chế độ phụ hệ. Vì vậy, chị gái, em gái dựng vợ gả chồng cho con cái
phải hỏi ý kiến của anh em trai mình. Xã hội cũng không cho phép trai
gái ăn ở với nhau trước khi lấy nhau. Vợ chồng mới cưới coi tập tục
phải đến năm sau mới được có con. Hôn nhân một vợ một chồng đã
bền vững, ít thấy xảy ra li dị. Việc li dị không chỉ do họ hàng mà do hội
đồng già làng thu xếp một cách rất thận trọng. Người Bana trong cùng
một họ hàng gần tuyệt đối không được lấy nhau. Vì phạm tội loạn luân
bị phạt rất nặng phải trần truồng phải trần truồng ăn vào máng lợn
trước công chúng, giống như trường hợp giao hợp với thú vật. Người
ta cấm ngặt an hem con dì con già, con cô con cậu và con chú con bác
ruột lấy nhau. Trường hợp người cùng một cụ, kỵ tức là đã tách ra khỏi
cùng một ông bà hay là đã hơi xa có thể được lấy nhau, sau khi chịu
làm một lễ tạ tội với thần linh. Tuy nhiên do có sự phân biệt giữa họ
gần và họ xa nên nguyên tắc hôn nhân ngoài dòng họ ở đây được thực
thi với hai cấp độ khác nhau. Thứ nhất, toàn bộ các thành viên nam
nữ thuộc họ gần tức là con cháu trong vòng ba đời của một ông bà tổ,
bao gồm cả bên cha và bên mẹ tuyệt đối không có quan hệ tính giao
và hôn nhân. Nếu ai vi phạm quy định đó tức đã mắc tội loạn luân và
bị làng xử phạt rất nặng theo luật tục. Họ cho rằng cùng dòng họ lấy
nhau là trái với đạo đức, khiến thần linh nổi giận gây ra các tai họa để
trừng phạt con người như cháy nhà, dịch bệnh, mất mùa. Dòng họ nào
để xảy ra chuyện đó sẽ phải chuẩn bị đủ 3 con trâu, 3 con dê, 3 con
gà và 3 ché rượu để cúng thần nhà rông, thần nước để giải hạn cho
dân làng và chính hai gia đình đó. Nghi thức trong lễ cúng là chủ nhà
đọc lời cúng và đôi trai gái bị phạt lấy một ít tiết của con vật hiến sinh
hòa với rượu, đổ vào vỏ bầu đến từng nhà trong làng, dùng cành cây
tre nhúng vào quả bầu đựng nước rồi quết lên chân cầu thang với ngụ
ý xua đuổi, tẩy uế mọi rủi ro tai họa, mong giàng đừng bắt tội dân làng.
Thứ hai, các thành viên nam, nữ thuộc họ xa, tức là con cháu cùng
một ông bà tổ, từ đời thứ bốn trở lên tính theo đằng cha cũng có thể
lấy được nhau, nhưng phải làm một lễ cúng nhỏ tạ lỗi với tổ tiên. Khi
đó họ sẽ không mắc vào tội loạn luân và không vi phạm luật tục.
Những trường hợp nam nữ quan hệ tình cảm sâu nặng với nhau mà
không đi đến hôn nhân, không làm thủ tục cưới hỏi thì làng bắt vạ một
con dê, một con bò hoặc một con gà. Trước đây, trai gái chưa cưới xin
có quan hệ với nhau lỡ có con phải tiến hành cúng thần trước khi trỉa
lúa, vào khoảng đầu tháng 4, với lễ vật là một con dê và một con lợn.
Người dân quan niệm các trường hợp vi phạm này đã làm ảnh hưởng
tới thần đất, thần lúa nên phải tiến hành cúng phạt trước khi trỉa lúa
nếu không dân làng sẽ mất mùa, đói kém. Vào ngày tổ chức nghi lễ,
lễ vật được giết thịt lấy máu trộn với rượu, và đội trai gái phạm tội phải
lần lượt mang thứ máu trộn với rượu đó bôi vào từng chân từng chiếc
cầu thang lên nhà trong làng, vừa bôi vừa xin lỗi mọi người xin đừng
nhớ, xin bỏ qua chuyện cũ. Trong trường hợp người con gái có chửa
mà không chịu khai ra bố đứa trẻ thì cô ta sẽ phải chịu hình phạt một
mình, từ trách nhiệm chuẩn bị lễ vật tới thực hiện các thủ tục trong lễ
cúng. Trường hợp hai bên cùng nhau nhận lỗi thì chàng trai phải chịu
trách nhiệm cao hơn. Nếu đã bị phát hiện và thừa nhận là cha của đứa
trẻ mà không chịu cưới cô gái và chăm sóc đứa trẻ, ngoài việc nộp
phạt, chàng trai phải đền cho cô gái một con bò. Trường hợp người
con gái có quan hệ với nhiều người con trai, khi có thai, chàng trai có
quan hệ với cô gái sau cùng phải đền nhiều hơn hoặc có thể chia thành
các phần trách nhiệm đều nhau.
2. Tang ma
Khi trong làng có người chết, họ đánh hồi trống dài, trầm. Và đến tại
nhà rông để báo cho dân làng và người đi rẫy, đi rừng biết. Người chết
được vuốt mắt, khâm liệm bằng khố, áo, váy mới bỏ gạo, muối và thịt
gà vào trong mồm, để một dúm muối lên bong, buộc ngón chân cái và
các ngón chân con vào nhau, sau đó được đặt lên nằm ở gian giữa,
nhà người giàu thì được nằm trên cáng gỗ. Bà con đến chia buồn,
đánh cồng chiêng, múa soang và giúp đỡ gia chủ, thân nhân ngồi
quanh thi hài khóc kể lể, tỏ tình thương bằng cách đút cơm vào mồm,
phả hơi thuốc vào mặt người chết.
Đàn ông có tục tự thương để tỏ lòng thương người quá cố. Vợ chết
hoặc con trai có mẹ chết dùng thanh củi đang cháy dí vào ngực cho
xém, dùng móng tay sắc cào vào người, dùng dao rạch đùi hay đập
đầu nhiều lần vào cột nhà cho chảy máu, vết sẹo đó vừa biểu thị tình
cảm vừa là dấu hiệu của sự để tang. Cà
ng có nhiều vết sẹo càng được các cô gái khâm phục và để ý. Tập tục
này đến những thập niên giữa thế kỷ XX này không còn.
Họ chon cất vào buổi tối vì quan niệm rằng: ban đêm dành cho cái
chết, ngày dành cho sự sống. Kể từ khi xác chết được đưa từ trên nhà
xuống ra nghĩa địa có các nhạc công đeo mặt nạ nhảy múa, đánh cồng
chiêng theo điệu dành cho đám tang, đi đầu là các nhạc công, sau đó
là thi hài người chết được quấn chiếu đặt trên cáng che do bốn người
khênh. Thân nhân vừa đi vừa khóc lóc, kể lể. Ra đến huyệt họ mới
đưa xác vào quan tài. Để trong quan tài một quả bầu đựng gạo, một
quả bầu đựng nước và một số vật tùy thân: tẩu thuốc, khăn, trước khi
lấp mộ, người chết được mở mặt lần cuối để thân nhân nhìn. Tiếp đó,
một người thân trong gia đình vợ hoặc cha mẹ của người đã khuất
đứng quay lưng lại huyệt mộ, ném xuống một ít đất vài mẩu gỗ để tiễn
biệt người chết. Người có mặt nạ cũng làm theo, dùng tay lấp đất đắp
thành mộ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- da_n_to_c_bana_3739.pdf