Trước đây ởnước ta, đặc biệt là ởphía Bắc, những trẻchậm phát triển trí tuệ
(CPTTT) thường được gọi là “trẻchậm khôn”, thuật ngữnày được sửdụng đầu tiên tại
Trung tâm nghiên cứu tâm lí trẻem (NT) của Bác sĩNguyễn Khắc Viện.
Thuật ngữ“chậm phát triển tâm thần” cũng được sửdụng trong nhiều tài liệu tiếng
Anh và tiếng Việt. Trong tiếng Anh thuật ngữ đó là: “Mental Retardation”. Hiệp hội chậm
phát triển trí tuệMỹvà các tác giảcủa cuốn Sổtay thống kê – chẩn đoán những rối nhiễu
tâm thần IV (DSM-IV) sửdụng thuật ngữnày.
Hiện nay, trên thếgiới có xu hướng sửdụng những thuật ngữít mang tính kì thịhơn
đối với khuyết tật như: trẻngoại lệ, trẻcó khó khăn vềhọc tập, trẻcó khuyết tật vềphát
triển, trẻcó nhu cầu đặc biệt Những cách sửdụng này nhằm tránh ảnh hưởng tiêu cực
của việc sửdụng thuật ngữ“chậm phát triển trí tuệ” hoặc “chậm phát triển tâm thần”; vì
những thuật ngữnày có thểlàm cha mẹtrẻcảm thầy buồn, trẻdễbịcác bạn trêu chọc và
giáo viên ít tin tưởng vào khảnăng học tập của trẻ.
Những lí giải trên của một sốnhà khoa học xét vềnhiều khía cạnh cũng có lý do thoả
đáng, nhưng có những thuật ngữkhác, chẳng hạn như“trẻgiảm khảnăng”, lại quá chung
chung, bởi lẽnhững trẻgiảm khảnăng không chỉlà trẻCPTTT mà còn có cảnhững trẻbị
khuyết tật khác.
Một hoạt động thông thường của các nhà khoa học vềcon người là phân chia các cá
nhân thành nhóm, gán tên gọi cho họ, và xem xét những người đó có gì khác so với những
người còn lại. Việc gán tên dù là tích cực hay tiêu cực, cũng đều khiến một nhóm người
nào đó sẽphải tách ra khỏi phần đông những người còn lại. Nhưvậy dù việc gán tên có thể
rất có ích trong các hoạt động hành chính và khoa học nhưng nó lại rất dễdẫn đến những
hiểu lầm trong cuộc sống.
27 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đại cương về giáo dục trẻ chậm phát triển trí tuệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h xung động và chính điều này đã dẫn đến việc trẻ
thiếu sự định hướng trong bài tập, không có kỹ năng tập trung chú ý và không có kỹ năng
tổ chức hoạt động, bất an và thiếu tự tin. Tất cả những vấn đề này không liên quan đến tư
duy nhưng chúng gây khó khăn cho trẻ trong việc học, lắng nghe giáo viên và thực hiện
những nhiệm vụ của mình.
1.2.2.3.Đặc điểm phát triển ngôn ngữ
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của trẻ ở lứa tuổi mầm non là nắm
vững tiếng mẹ đẻ như là phương tiện và khả năng giao tiếp của con người, phương tiện
nhận thức. Chính ở lứa tuổi này đứa trẻ có khả năng nắm được lời nói. Nếu như trẻ không
nắm được tiếng mẹ đẻ ở một mức nhất định vào độ tuổi 5-6 thì nó cũng không thể nói lưu
loát được ở độ tuổi sau đó.
Tuy nhiên, qua việc quan sát kĩ các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng ngôn ngữ trẻ em
chậm phát triển trí tuệ chậm hơn trẻ bình thường cùng độ tuổi. Những trẻ này, khi đến tuổi
đi học có vốn từ ít. Trẻ chậm phát triển trí tuệ ít dùng những câu phức tạp, ít dùng liên từ
các em cũng rất khó khăn khi cần tìm những từ diễn tả ý nghĩ của mình và thường trả lời
cộc lốc. Trẻ CPTTT thường không hiểu được những từ ngữ có tính chất trừu tượng, đặc
biệt là trẻ rất khó nắm bắt những khái niệm về các sự vật và hiện tượng xung quanh. Trong
quá trình giao tiếp trẻ rất khó đáp ứng được những yêu cầu của người khác, ví dụ, khi yêu
cầu trẻ “hãy đưa cho mẹ....” hoặc “hãy chọn cho cô 3 (đồ vật)?..màu?....kích cỡ?.và
đem đến đưa cho ai đó” trẻ chỉ có thể thực hiện được một trong những yêu cầu đó mà
thôi. Trẻ chậm phát triển trí tuệ không có khả năng ghi nhớ hết những câu nói của người
khác nói với trẻ.
Những trẻ bị chấn thương não thường chóng mệt mỏi, thiếu chú ý nên khi viết
thường rất cẩu thả, chữ nguệch ngoạc, nhiều lỗi chính tả. Đối với những trẻ này giáo viên
cần kiên trì giúp đỡ thì mới hình thành được hành động viết.
Phát triển ngôn ngữ ở trẻ được tiến hành trong quá trình hoạt động ở tất cả các dạng
khác nhau: trong đời sống hàng ngày, trong giao tiếp với các thành viên trong gia đình và
trong các giờ học đặc biệt về phát triển lời nói. Trong các bài học về luyện tập cảm giác,
hình thành tư duy đã tạo dựng ở trẻ những hình tượng khái niệm thích hợp của thực tiễn
xung quanh; lĩnh hội ngôn từ và biểu đạt thuộc tính tính chất của vật thể, hình thành mối
quan hệ nhân quả. Tất cả kinh nghiệm xã hội, tình cảm lĩnh hội được sẽ được củng cố và
khái quát trong ngôn từ và chính lời nói sẽ nhận được cơ sở nội dung thích hợp.
Trong các bài học đặc biệt về phát triển lời nói, ngữ điệu lời nói sẽ được hệ thống
hóa, khái quát hóa. Về ngữ điệu lời nói được trẻ tiếp thu trong quá trình thực hiện các dạng
hoạt động khác, vốn từ của trẻ sẽ được mở rộng và chuẩn hóa, đồng thời đẩy mạnh ngôn
ngữ mạch lạc. Ngoài ra, các nhiệm vụ điều chỉnh hợp lý đặc biệt được giải quyết: Hình
thành các chức năng cơ bản của lời nói -chức năng định vị, bổ sung, nhận thức, điều chỉnh
và giao tiếp và cũng tiến hành công tác điều chỉnh sự phát âm của trẻ.
- 16 -
Trong quá trình phát triển hoạt động ngôn ngữ ở trẻ cần phải chú ý đến các giờ học
của từng cá nhân thường được hướng vào việc hình thành lời nói mạch lạc, cấu trúc ngữ
pháp và điều chỉnh cách phát âm.
Có thể giúp trẻ chậm phát triển trí tuệ phát triển ngôn ngữ bằng nhiều cách khác
nhau nhưng hướng chung là:
+Tổ chức giáo dục sớm cho trẻ
+Cho trẻ đến trường học hoà nhập với bạn bè bình thường.
+Nhà trường cần tổ chức đa dạng các loại hoạt động trong lớp, ngoài nhà trường.
Đó là môi trường phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và là điều kiện cho trẻ phát triển tư duy.
+Nhà trường phối hợp với gia đình giúp đỡ trẻ bằng cách tăng cường giao tiếp, chú
ý sửa lỗi phát âm, sửa câu nếu trẻ nói sai; động viên trẻ luyện tập viết.
1.2.2.4.Sự phát triển trí nhớ
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận xét chung là trẻ chậm phát triển trí tuệ thường
rất khó khăn trong việc ghi nhớ tài liệu học tập, nếu không có sự luyện tập thường xuyên
thì trẻ sẽ quên hết mọi kiến thức đã học. Đó là hiện tượng chậm nhớ, chóng quên ở những
trẻ này.
Quá trình ghi nhớ không chỉ phụ thuộc vào nội dung, tính chất của đối tượng cần
nhớ, mà còn phụ thuộc vào động cơ, mục đích và phương thức hành động cá nhân.
Trẻ chậm phát triển trí tuệ ghi nhớ máy móc tốt hơn ghi nhớ có ý nghĩa, chẳng hạn,
do chỉ nhớ dấu hiệu bên ngoài các em cho rằng con chó cũng là con mèo vì đều có bốn
chân và một số dấu hiệu bên ngoài gần giống nhau. Cũng do yếu về tư duy nên trẻ CPTTT
có sự hạn chế về khả năng tìm ra những dấu hiệu cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng
cần nhớ, đặc biệt là trong hoạt động học tập, trẻ chậm phát triển trí tuệ rất khó khăn trong
việc ghi nhớ những kiến thức. Từ đó, chất lượng trí nhớ của trẻ bị suy giảm nhiều và việc
trẻ nhớ gián tiếp sẽ khó khăn hơn nhớ trực tiếp. Nghiên cứu sự phát triển về trí nhớ hình
ảnh của trẻ chậm phát triển trí tuệ các nhà tâm lý nhận thấy trí nhớ hình ảnh của trẻ cũng
rất hạn chế. Ví dụ, khi cho trẻ xem một bảng lớn có vẽ 9 -10 đồ vật khác nhau và yêu cầu
trẻ hãy nhớ vị trí của những đồ vật đó (thời gian xem là 5 phút). Sau đó, cất bảng đi và đặt
câu hỏi cho trẻ “Trong bảng có vẽ những hình gì?” Trẻ chỉ nêu được 3 hình vẽ trong bảng.
Ngoài ra, về trí nhớ ngôn ngữ của trẻ cũng gặp không ít những khó khăn, trẻ chỉ có thể ghi
nhớ được 4-5 từ trong tổng số 10 từ mà cô giáo đọc cho trẻ nghe trong 6 lần với tốc độ đọc
là mỗi từ một giây.
Phát triển trí nhớ và khắc phục sự quên cho các em chậm phát triển trí tuệ là một
việc hết sức khó khăn, phức tạp. Để khắc phục dần những khó khăn cho trẻ chậm phát triển
trí tuệ trong việc ghi nhớ, cần phải có các biện pháp đặc thù trong việc giáo dục và dạy dỗ
trẻ. Trong tất cả các giờ học với trẻ cần phải chú ý đến việc phát triển các loại trí nhớ.
Những đứa trẻ có vấn đề cũng như những đứa trẻ phát triển bình thường khác đều có sự
phát triển vượt trội của một số dạng trí nhớ và chúng tham gia vào hoạt động này hay hoạt
động khác của trẻ với những mức độ khác nhau.
Các nhà sư phạm và những bậc phụ huynh cần phải là những nhà quan sát tinh ý để
thấy được các loại (hình) trí nhớ nổi trội và cân nhắc đến điều này khi đưa vào hoạt động
của trẻ những bài tập để bước đầu hình thành loại trí nhớ chủ đạo, sau đó phát triển các loại
trí nhớ khác. Việc phát triển các loại trí nhớ cho phép hình thành và củng cố ở trẻ những tri
giác hình ảnh thích hợp của thế giới hiện thực xung quanh. Và cái chính là tri giác những
hình ảnh đa dạng là cơ sở để hình thành những khái niệm khái quát, linh hoạt hơn về vật
thể và hiện tượng của môi trường xung quanh.
1.2.2.5 Đặc điểm phát triển tình cảm
Sự rối loạn trong quá trình phát triển tâm lý và thể chất ở trẻ em CPTTT đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tình cảm và cảm xúc của trẻ. Một trong những biểu hiện
đặc trưng đó là ở trẻ xuất hiện nhiều loại phản ứng mang tính xúc cảm khác nhau: tự vệ-công
kích, tự vệ -thụ động “quá trẻ con” (G.E.Xukhareva-1959). Tất cả đều là dạng thần kinh ban
đầu của nhân cách. Trong đó, ở một số trẻ là sự hung dữ, hành động không nhất quán,
- 17 -
những hành vi thiếu suy nghĩ, còn ở một số trẻ khác là sự nhút nhát, hay khóc nhè, thiếu tự
tin, đa nghi, thiếu việc biểu hiện tính sáng tạo và niềm đam mê. Trẻ CPTTT thường tự
đánh giá cao, có tính ích kỷ, thiếu tính yêu lao động, không có khả năng đồng cảm và tự
hạn chế, có xu hướng về bệnh cảm xúc mạnh.
Do ảnh hưởng của sự rối loạn trí tuệ nên ở nhóm trẻ này thường không có những
khái niệm về bản thân, về những người xung quanh trẻ, trẻ không biết thiết lập mối quan
hệ và bày tỏ thái độ tích cực của mình với người khác. Ở lứa tuổi sơ sinh, ngay sau khi
chào đời đến lúc được khoảng vài tuần tuổi ở trẻ chậm phát triển trí tuệ không xuất hiện
nhu cầu tình cảm và xã hội, một số những biểu hiện đặc trưng đó là trẻ không chăm chú
nhìn mẹ, không dõi mắt theo người thân hoặc lạ không bày tỏ thái độ ngưng khóc khi được
bế, hoặc mỉm cười khi thấy mình trong gương.v.v Vào khoảng 3-4 tuổi trẻ CPTTT
không biết thể hiện tình cảm của mình đối với những gì mà chúng yêu thích hoặc không
thích. Ví dụ, khi xem một quyển truyện tranh, hay chơi với một chiếc ôtô, một con búp
bê.v.v chúng không biết thể hiện các hành động thực tiễn đối với chiếc ôtô hoặc quyển
sách đó (như sờ mó, ngắm nghía, vuốt ve..), thậm chí có trẻ còn có những hành vi bất
thường đối với những món đồ chơi như: bẻ chân tay của búp bê, móc mắt, cắt tóc, đập vỡ ô
tô, xé sách
Tất cả những điều trên cho chúng ta thấy rằng ở trẻ chậm phát triển trí tuệ sự rối
loạn hành vi và cảm xúc cũng biểu hiện rất rõ. Tính tích cực trong phạm vi tình cảm của trẻ
CPTTT rất hạn chế, chúng thờ ơ và gần như vô cảm đối với mọi sự vật hiện tượng xung
quanh. Trẻ chậm phát triển trí tuệ thường không thích chơi những trò chơi tập thể, trò chơi
sắm vai, trò chơi mô phỏng (bắt chước) v.v. trẻ không quan tâm đến bạn bè cùng lứa tuổi,
không chơi cạnh bạn và quan sát những trẻ khác. Trẻ rất khó khăn trong việc hợp tác với
người lớn như bố, mẹ, anh chị, cô giáo trong sinh hoạt hằng ngày. Chính vì lẽ đó, trong
cuộc sống hằng ngày ở nhà cũng như ở trường cha mẹ và các giáo viên cần phải có sự điều
chỉnh kịp thời và phù hợp những biểu hiện tình cảm và cảm xúc của trẻ, thông qua một số
các loại hình hoạt động như: âm nhạc, mỹ thuật, môi trường xung quanh, làm quen văn
học, vui chơiđể làm cho cuộc sống của trẻ thêm phong phú, tràn ngập cảm xúc tốt đẹp,
hình thành cách ứng xử phù hợp và hài hoà của trẻ đối với bạn bè cùng tuổi và những
người lớn xung quanh, hình thành ở trẻ các phẩm chất tốt đẹp đó là lòng vị tha, tính đôn
hậu và kiên trì, khái niệm về tinh thần giúp đỡ lẫn nhau.v.v. Điều cơ bản nhất là tạo cho trẻ
khả năng bước vào cuộc sống xã hội một cách tự tin và độc lập.
1.2.2.6. Nhu cầu và khả năng của trẻ CPTTT
Nhu cầu của trẻ CPTTT
Trẻ CPTTT cũng có những nhu cầu như trẻ bình thường nếu không muốn nói đó là
những nhu cầu vô cùng mạnh mẽ và cấp bách đối với các em. Tuy nhiên, những hạn chế
do khuyết tật gây ra có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động thể chất và tinh thần. Vì vậy,
các em có những nhu cầu cấp bách đòi hỏi phải hỗ trợ, kích thích nhu cầu cũng như mong
muốn, nỗ lực để đáp ứng của chính bản thân trẻ, giúp các em có thể tham gia hoạt động và
hoà nhập với xã hội dễ dàng.
Những nhu cầu cơ bản của trẻ CPTT là :
+ Nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở và chăm sóc y tế
+ Nhu cầu được vui chơi, giải trí: thấy những trẻ khác vui chơi các em cũng rất
muốn được tham gia, được chơi đặc biệt là những trò chơi vui nhộn hấp dẫn Trẻ rất
thích xem các chương trình trò chơi, chương trình thiếu nhi vui nhộn trên TV, nghe đài
+ Nhu cầu được đi học: Các em cũng rất thích được đi học, mong muốn được đến
trường. Biểu hiện: trẻ rất thích cầm bút viết mặc dù chỉ viết được những chữ rất đơn giản,
có khi chỉ là những nét vẽ nguyệch ngoạc, trẻ rất thích đeo cặp sách.
+ Nhu cầu về an toàn: Nhiều trẻ chậm phát triển rất e dè, mất tự tin, các em không
thích tiếp xúc với người lạ
+ Nhu cầu khẳng định bản thân: Nhiều trẻ CPTTT rất muốn được thể hiện trước
đám đông: múa, hát..
- 18 -
Khả năng của trẻ CPTTT
Theo quan điểm của Tật học hiện đại thì trẻ khuyết tật không phải ít phát triển hơn
so với trẻ bình thường mà chúng phát triển theo một chiều hướng khác. Mọi trẻ em sinh ra
và lớn lên trong xã hội loài người đều có những nhu cầu cơ bản về cơ thể, sự an toàn và
những khả năng nhất định. Trẻ khuyết tật cũng có những nhu cầu cơ bản và khả năng nhất
định tuy ở những mức độ khác nhau so với trẻ em bình thường. Trẻ CPTTT cũng có những
khả năng nhất định. Đó là biết mặc quần áo, vệ sinh nhà cửa, lau rửa bát chén Trẻ cũng
có khả năng múa, làm xiếc (uốn thân, ngồi xếp bằng)trẻ có khả năng nhận biết các hiệu
lệnh.tất nhiên mức độ khả năng của trẻ có thấp hơn những trẻ bình thường rất nhiều.
Trẻ có thể tham gia các hoạt động như mọi thành viên khác trong cộng đồng. Tuy
nhiên trẻ có được tham gia các hoạt động đó để thể hiện và phát triển các tiềm năng của
bản thân hay không tuỳ thuộc phần lớn vào sự tạo điều kiện của gia đình, cộng đồng và
toàn xã hội.
1.3.Giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ
1.3.1. Khái niệm
Dù còn nhiều tranh cãi ngay cả trong các khái niện về GDĐB, nhìn chung đến nay
các nhà giáo dục phương Tây và phương Đông đều thống nhất sử dụng một khái niệm
GDĐB cho trẻ CPTTT trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập. GDĐB cho trẻ CPTTT có
thể được định nghĩa là sự giảng dạy và hướng dẫn được thiết kế đặc biệt nhằm đáp ứng
những nhu cầu và khả năng riêng biệt của nhóm trẻ này dù theo bất cứ cách tổ chức nào
(chuyên biệt, hội nhập hay hoà nhập)
1.3.2. Mục tiêu giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ
1.3.2.1. Quyền được giáo dục của trẻ chậm phát triển trí tuệ
Vấn đề giáo dục trẻ CPTTT liên quan chặc chẽ với quan điểm của xã hội về người
CPTTT. Quan điểm này có ảnh hưởng trực tiếp đến tình cảm, tư tưởng và thái độ đối với
người chậm CPTTT. Quan điểm của chính phủ Việt Nam về trẻ CPTTT được thể hiện
trong các văn bản Pháp luật của Nhà nước cũng như qua việc phê chuẩn các công ước quốc
tế. Một trong những công ước quan trọng nhất liên quan đến trẻ em là Công ước Liên hiệp
quốc năm 1989 về quyền trẻ em. Chính phủ Việt Nam đã thông qua công ước này ngày 28-
2-1990. Công ước nêu rõ “...Trẻ khuyết tật có quyền được chăm sóc đặc biệt; được giáo
dục và đào tạo để tự giúp bản thân; để sống một cuộc sống đầy đủ, phù hợp đạo đức; để đạt
tới mức tối đa của sự tự chủ và hoà nhập xã hội” (Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ
em, điều 23)
Trẻ khuyết tật được mô tả là trẻ em có khuyết tật trí tuệ hoặc thể chất. Giáo dục là
một quyền cơ bản của trẻ em nên cũng là một quyền cơ bản của trẻ khuyết tật, bao gồm cả
trẻ CPTTT.
1.3.2.2.Mục tiêu thực tiễn của giáo dục cho trẻ chậm phát triển trí tuệ
Ngoài quyền cơ bản là được giáo dục, để việc thực hiện trở nên có tính thực tiễn,
trẻ CPTTT cần được coi là có thể phát triển, có thể học tập và có thể giáo dục được.
Trẻ CPTTT cùng trải qua những giai đoạn phát triển tương tự như trẻ bình thường
[xem chương 3 “Sự phát triển của trẻ chậm phát triển trí tuệ”]. Điểm khác nhau là những
giai đoạn này kéo dài hơn và quá trình phát triển dừng lại sớm hơn. Ngoài ra có những
khuyết tật được xem là sự sai lệch chức năng bẩm sinh hoặc mắc phải và có thể ảnh hưởng
đến sự phát triển bình thường của trẻ.
Mô hình phát triển xã hội - tình cảm của trẻ CPTTT khuyến khích việc thiết kế các
chương trình giảng dạy và hướng dẫn dựa trên nguyên tắc trẻ CPTTT có thể giáo dục được
nếu chúng ta quan niệm học tập như là những cách thể hiện hành vi mới hoặc là việc mở
rộng những hành vi hiện tại.
1.3.2.3. Mục tiêu chung của giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ
Cũng như giáo dục chính quy, mục tiêu chung của giáo dục đặc biệt là dạy những
kiến thức văn hoá và kỹ năng tương ứng nhằm giúp học sinh có được cơ hội tối đa để có
thể sống độc lập và phát triển đến mức cao nhất, có thể đạt được một vị trí xứng đáng trong
- 19 -
xã hội. Vì vậy giáo dục phải mang tính chức năng đối với trẻ, phải dựa trên khả năng riêng,
môi trường sống và triển vọng tương lại của trẻ.
Trọng tâm của giáo dục đặc biệt phải là những chương trình học thích hợp và có ý
nghĩa mà trẻ có thể theo được và có thể áp dụng vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai
của trẻ. Chương trình học không chỉ hướng về các vấn đề học thuật mà nên tập trung vào
phát triển các kỹ năng xã hội và kỹ năng chuyển đổi nhằm thức đẩy sự hoà nhập của trẻ
vào xã hội.
Vì mục tiêu cuối cùng nhằm đến cho trẻ là cuộc sống cộng đồng hoặc cuộc sống
hoà nhập nên câu hỏi quan trọng nhất để đánh giá chương trình là “nó đã mang lại hiệu quả
gì cho trẻ?”. Thách thức đối với các chương trình giáo dục hiện tại cho trẻ CPTTT chính là
việc phải đảm bảo chuẩn bị được cho trẻ bước vào tương lai.
1.3.2.4. Giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm phát triển trí tuệ - một chương trình giảng dạy kỹ
năng cuộc sống
Bằng cách nhấn mạnh tính chức năng, giáo dục đặc biệt cho trẻ chậm CPTTT cần
kết hợp mô hình phát triển với mô hình sinh thái.
Theo mô hình phát triển, các kỹ năng hiện tại của trẻ đã được đánh giá bằng cách
thực hiện một hoặc nhiều bài kiểm tra liên quan tới những quy tắc thông thường hoặc
những bảng đánh giá về “sự phát triển của trẻ” đã được chuẩn hoá. Các bảng đánh giá giúp
xác định trẻ thiếu những mốc và những kỹ năng phát triển cụ thể nào. Dựa trên các đánh
giá này, một kế hoạch hướng dẫn trẻ sẽ được xây dựng, bắt đầu từ những kỹ năng mà trẻ
không thực hiện được.
Theo mô hình sinh thái, các chuyên gia hoặc giáo viên tiến hành kiểm tra những
môi trường, nơi trẻ phải thể hiện chức năng, qua đó xác định những kỹ năng cụ thể trẻ cần
có thể tham gia được vào các môi trường này. Đây chính là những kỹ năng làm cơ sở cho
việc đánh giá.
Chương trình giảng dạy kỹ năng cuộc sống sẽ là chương trình thể hiện những đặc
điểm của môi trường trẻ sẽ sống, làm việc và vui chơi sau khi rời trường.
Cốt lõi của giáo dục là hướng dẫn trẻ vào việc tự chăm sóc mình, quan hệ với
những người khác và môi trường.
Chương trình giảng dạy kỹ năng cuộc sống là chương trình dạy những kỳ năng để
chuẩn bị cho trẻ thực hiện chức năng một cách thành công trong các môi trường hoạt động
của trẻ.
Vì khả năng của mỗi trẻ là khác nhau và môi trường ở đó mỗi trẻ thực hiện các
chức năng cũng khác nhau, nên chương trình dạy kỹ năng cuộc sống cho mỗi trẻ cũng phải
khác nhau. Giáo dục theo hướng cá nhân hoá nên được thể hiện bằng một kế hoạch giáo
dục cá nhân
Theo hiệp hội CPTTT Mỹ, những kỹ năng cần thiết đối với trẻ là:
Giao tiếp: Những kỹ năng bao gồm cả việc nghe hiểu và diễn đạt thông tin bằng
những hành vi có tính biểu tượng (ví dụ như lời nói, chữ viết, các ký hiệu, ngôn ngữ ký
hiệu...) hoặc những hành vi biểu tượng (ví dụ như nét mặt, cử động của cơ thể, sự động
chạm, cử chỉ...)
Tự chăm sóc: Những kỹ năng liên quan tới việc đại và tiểu tiện, ăn, mặc, vệ sinh và
tắm rửa
Sống tại nhà: Những kỹ năng liên quan tới việc thực hiện các chức năng tại nhà bao
gồm cả việc chăm sóc quần áo, giữ gìn nhà cửa, bảo dưỡng đồ đạc, chuẩn bị và nấu ăn, đặt
kế hoạch và tính toán việc chi tiêu mua bán, giữ an toàn nhà cửa, lên lịch công việc/hoạt
động động hàng ngày
Xã hội: Những kỹ năng liên quan tới việc trao đổi với các cá nhân khác
Sử dụng các phương tiện công cộng: Những kỹ năng liên quan tới việc thích hợp
những dịch vụ công cộng, bao gồm cả việc đi lại trong cộng đồng.
- 20 -
Tự định hướng: Những kỹ năng liên quan tới sự lựa chọn, liên quan tới khả năng
các cá nhân có thể sống theo cách mà họ mong muốn, nhất quán trong cách đánh giá và lựa
chọn điều mình thích theo khả năng riêng.
Sức khoẻ an toàn: Những kỹ năng liên quan tới việc duy trì sức khoẻ bằng ăn uống,
xác định bệnh tật, phòng và trị bệnh, tìm kiếm trợ giúp cơ bản nhất, vấn đề về giới tính, sự
khoẻ mạnh thể chất và những vấn đề về an toàn.
Học đường chức năng: Những khả năng và kỹ năng nhận thức liên quan tới việc
học ở trường sẽ được áp dụng trực tiếp vào cuộc sống sau này của cá nhân. Học đường
chức năng là môn học dạy những kỹ năng cần thiết, áp dụng trực tiếp vào trong môi trường
sống hàng ngày của trẻ, đặc biệt là những kỹ năng mà trẻ sẽ cần sau khi rời trường.
Giải trí: Hình thành những sở thích giải trí (tự giải trí và giải trí qua tương tác)
trong đó phản ánh những ưu tiên, lựa chọn và quan niệm về độ tuổi, về văn hoá nếu như
hoạt động được tiến hành ở nơi công cộng.
Lao động: Những kỹ năng liên quan tới quá trình làm một công việc cả ngày hoặc
nữa ngày trong cộng đồng, với những kỹ năng nghề đặc thù, những hành vi xã hội và
những kỹ năng lao động phù hợp.
1.3.3. Biện pháp khắc phục những hạn chế cho trẻ chậm phát triển trí tuệ
1.3.3.1. Những hạn chế của trẻ chậm phát triển trí tuệ
1.3.3.1.1. Sự hạn chế về khả năng trí tuệ
Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình là một trong những hạn chế lớn nhất của
người CPTTT nói chung và trẻ em bị CPTTT nói riêng. Sự hạn chế về chức năng trí tuệ
phụ thuộc vào mức độ CPTTT của trẻ, mức độ CPTTT càng nặng thì sự hạn chế về khả
năng trí tuệ của trẻ càng lớn. Chính sự hạn chế về khả năng trí tuệ đã dẫn đến những hạn
chế trong hoạt động nhận thức của trẻ như: cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ...
1.3.3.1.2. Sự hạn chế về khả năng chú ý
Phần lớn các trẻ CPTTT gặp khó khăn khi phải tập trung và duy trì sự chú ý vào một
công việc nào đó trong một thời gian dài. Trẻ rất khó khăn lựa chọn những thông tin cần
thiết, tập trung chú ý vào những thông tin đó và bỏ qua những kích thích không có liên
quan. Đôi khi các trẻ CPTTT phán đoán sai do chúng không xác định được những thông
tin chính, trẻ thường chú ý đến những thông tin phụ. Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát bức tranh
“em đi học", sau đó hỏi trẻ “ai trong bức tranh” trẻ có thể trả lời hoặc chỉ vào con bướm, cây
cối trong tranh mà không trả lời đó là “bạn học sinh”.
1.3.3.1.3. Sự hạn chế về các kỹ năng giác động
Kĩ năng giác động là những kĩ năng liên quan đến cảm giác và vận động da toàn
thân. Kĩ năng cảm giác thuộc về cách mà đứa trẻ ghi nhận, xử lí và giải thích thông tin tiếp
nhận qua các giác quan (nghe, nhìn, ngửi, nếm, sờ, chạm). Kĩ năng vận động bao gồm các
kĩ năng vận động thô và vận động tinh – hai kĩ năng này có liên quan mật thiết với nhau.
Nhiều hoạt động yêu cầu có sự phối hợp nhịp nhàng giữa 2 nhóm kĩ năng trên (ví dụ như
phối hợp tay – mắt). Trẻ CPTTT thường bị hạn chế trong vực phối hợp trên nên khi thực
hiện một hoạt động, nhiệm vụ nào đó sẽ gặp khó khăn, ví dụ như xâu hạt, viết
1.3.3.1.4. Sự hạn chế về kỹ năng xã hội.
Những trẻ CPTTT, thường yếu kém về kĩ năng xã hội. Các trẻ này thường khó
khăn trong các tình huống như:
- Chơi cùng nhau, làm cùng nhau.
- Lắng nghe người khác nói, luân phiên chờ đến lượt mình.
- Rất khó để hiểu rằng có rất nhiều cách nhìn nhận người khác khác với cách nhìn
nhận của mình.
- Rất khó biểu hiện được thái độ đúng mực và phù hợp với ai đó hay với mọi người
trong những tình huống nào đó.
- Khó nhận biết thái độ, ý định của người khác qua những biểu hiện trên nét mặt hay tư
thế.
1.3.3.1.5. Sự hạn chế về ngôn ngữ
- 21 -
Ở người bình thường, để có thể giao tiếp có hiệu quả cần phải có kĩ năng diễn đạt
ngôn ngữ (diễn đạt ý nghĩ thành ngôn từ) và kĩ năng tiếp nhận ngôn ngữ (hiểu những gì
người khác nói). Trẻ CPTTT có sự hạn chế về cả hai kỹ năng này, đặc biệt là kỹ năng ngôn
ngữ. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ CPTTT không mất nhiều thời gian hơn và trình độ ngôn
ngữ của trẻ thấp hơn so với trẻ bình thường hai tuổi. Cụ thể là:
• Vốn từ của trẻ ít và nghèo nàn
• Nhớ từ mới lâu và chậm
• Trong khi nói trẻ ít dùng câu phức tạp, ít dùng liên từ mà thường sử dụng câu
ngắn, câu đơn, câu cụt
• Lỗi phát âm: Nói ngọng, nói lắp và nói khó
• Nói lại rập khuôn những gì người khác đang nói nhưng không hiểu ý nghĩa
của lời nói đó
• Không thể hiện rõ nhu cầu giao tiếp với người khác. Ví dụ: trẻ không chủ
động thiết lập mối quan hệ với người khác, không đặt câu hỏi, hay chủ động
trong trao đổi với người khác về một vấn đề nào đó hoặc trẻ từ chối giao tiếp
với người khác.
1.3.3.1.6. Những vấn đề khái quá hoá kiến thức
Trẻ CPTTT gặp khó khăn trong việc vận dụng kiến thức và các kỹ năng của mình
trong những trường hợp khác nhau với tình huống mà trẻ đã từng gặp. Tuy có những tình
huống gần giống với tình huống quen thuộc nhưng trẻ vẫn lúng túng và thực hiện sai. Ví
dụ, trẻ CPTTT biết con vịt bơi dưới nước, thuyền buồm chạy dưới nước, khi học bài “làm
quen phương tiện giao thông”, cô hỏi “phương tiện gì chạy dưới nước”? trẻ trả lời là “con
vịt”.
1.3.3.1.7. Hành vi không mong muốn
Do sự hạn chế về chức năng trí tuệ, ngôn ngữ, khả năng chú ý, những khó khăn về
thể chất và tâm thần nên trẻ CPTTT thường có những hành vi không mong muốn như:
- Trẻ đi lại tự do trong giờ học
- Trẻ không ngồi yên, vận động chân tay liên tục
- Đánh bạn
- Đập phá, ném đồ chơi trong khi đang chơi
- Từ chối sự chăm sóc vỗ về của người khác bằng cách lẩn tránh
- Không thực hiện hoạt động hay nhiệm vụ
- Trẻ ngồi uể oải, buồn chán, im lặng
- Không phản ứng với những nỗ lực giao tiếp của người khác, thậm chí ngay cả khi
bị trêu trọc
- Nói tự do, nói một mình trong giờ học
- La hét, gào thét không rõ nguyên nhân
- Hành vi tự xâm kích: đập đầu, dứt tóc, cắn tay
1.3.3.1.8. Động cơ kém hăng hái, sợ thất bại
Đứa trẻ thường không hoàn thành nhiệm vụ nào đó hoặc qua nhiều lần thất bại sẽ
dẫn đến trẻ CPTTT dễ nản trí. Do vậy trẻ kém hăng hái, không muốn học những cái mới
hoặc đối mặt với tình huống mới, trẻ hay ỷ lại và trông đợi sự giúp đỡ của người khác. Có
trẻ có thể làm được nhưng lại thiếu tự tin nên không đủ quyết tâm để thực hiện.
1.3.3.2. Biện pháp khắc phục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- stlh0009_p1_4822.pdf