Lươn là loài ưa sống chui rúc trong bùn đặc biệt trong lớp mùn bã hưu cơ có nhiều sinh vật đáy. Chúng
ta cũng bắt gặp lươn chui rúc trong các đống cỏ, rơm rạ trong ruộng hoặc ao mương. Ngoài ra lươn cũng
có tập tính đào hang ven bờ ao, mương để trú ẩn và làm tổ đẻ
114 trang |
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đặc điểm sinh học và kỹ thuật nuôi một số loại thỷ sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỹ thuật nuôi
KỸ THUẬT NUÔI LƯƠN ĐỒNG
(Monopterus albus)
Ts. Dương Nhựt Long
Bộ môn Kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA LƯƠN ĐỒNG
Theo Mai Đình Yên (1978), Trần Thị Thu Hương và Trương Thủ Khoa (1984) lươn này có một số đặc
điểm như sau
Lươn đồng Monopterus albus
1.1 Tập tính sống
Lươn là loài ưa sống chui rúc trong bùn đặc biệt trong lớp mùn bã hưu cơ có nhiều sinh vật đáy. Chúng
ta cũng bắt gặp lươn chui rúc trong các đống cỏ, rơm rạ trong ruộng hoặc ao mương. Ngoài ra lươn cũng
có tập tính đào hang ven bờ ao, mương để trú ẩn và làm tổ đẻ.
1.2 Tập tính bắt mồi
Lươn là loài ăn tạp nhưng thiên về động vật, đặc biệt thức ăn có mùi tanh như tôm, cá, nòng nọc... Ngoài
ra lươn cũng có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác như phụ phẩm của lò mỗ, đồ phế thải của nhà bếp
kể cả thức ăn viên dành cho gia cầm.
1.3 Tập tính sinh sản
Lươn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có 2 mùa đẻ trong năm là tháng 5 - 6 và tháng 8 - 9. Lươn thường
đẻ trong tổ và làm bọt lấp kín miệng tổ, sau khoảng 7 - 8 ngày ở nhiệt độ 29 – 30
0
C trứng nở ra lươn
con và sau khoảng 10 ngày lươn con đã tiêu hết noãn hoàng và thóat ra khỏi tổ đi kiếm ăn.
Thức ăn của lươn ở giai đoạn này là giống loài động vật thủy sinh trong nước như giun ít tơ, bọ gậy...
1.4 Tập tính sinh trưởng của lươn
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Lươn là loài động vật thủy sinh lớn chậm, trọng lượng trung bình của lươn sau 12 tháng có thể đạt 100 -
150g/con và sau 12 tháng có thể đạt từ 200 – 3000 g/con.
2. GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA LƯƠN
Lươn là một trong đối tượng dễ nuôi, có nhiều loại thức ăn khác nhau và có thể tận dụng những ao
mương nhỏ và cạn kể cả chuồng heo cải tạo lại để nuôi.
Nuôi lươn ở quy mô hộ gia đình ngoài vấn đề tận dụng lao động nhàn rỗi, thức ăn thừa của gia đình, của
chăn nuôi mà còn có thể tăng thêm thu nhập góp phần cải thiện đời sống gia đình, và đặc biệt thích hợp
với các gia đình có nguồn vốn eo hẹp.
3. KỸ THUẬT NUÔI LƯƠN THỊT
3.1 Một số phương pháp nuôi lươn thịt
Do lươn có tập tính sống chui rúc trong bùn đáy và đào hang để trú ẩn, đồng thời lươn cũng có thể bò đi
mất nếu bờ ao không đủ cao. Do vậy vấn đề nuôi lươn trong các ao mương cần phải hết sức chú ý vấn
đề này.
Tùy theo điều kiện cụ thể của từng nơi mà có thể áp dụng một số phương pháp nuôi sau đây
3.1.1 Nuôi trong các hồ cement hoặc chuồng nuôi heo cải tạo lại
Diện tích hồ nuôi có thể từ 4 - 6 hoặc 10 m2, tùy điều kiện cụ thể.
Thành hồ phải đảm bảo độ cao để lươn không bò ra ngoài được. Độ cao tối thiểu của thành hồ
tính từ mặt bùn đáy trở lên phải cao hơn 2/3 chiều dài của lươn (ví dụ: lươn dài 50 cm có khả
năng bò qua bờ có chiều cao 30 - 35 cm).
Sau khi đã sửa sang hồ xong nên đổ một lớp sình non dưới đáy hồ 20 - 25 cm (tốt nhất lấy sình
đất thịt pha sét). Cũng có thể dùng chuối cây xếp thành một lớp dưới đáy rồi đổ sinh phủ lên trên.
Trên mặt nước có thể thả lục bình hoặc bèo tai tượng khoảng 1/3 diện tích.
Hồ nuôi lươn nên bố trí ống bọng để thay nước dễ dàng
Hồ cement dùng để nuôi lươn bao gồm:
1. Ống cấp nước (5 cm)
2. Lớp sình 20 - 25 cm
3. Lớp nước 5 - 10 cm (tính từ mặt sình lên)
4. Ống thoát nước (5 cm)
5. Thành hồ bằng gạch xây, có gờ nhằm tránh cho lươn thóat ra ngoài.
3.1.2 Nuôi lươn trong các ao mương
Các ao mương nhỏ có thể tận dụng để nuôi lươn. Nhưng cần chú ý các vấn đề sau:
Cần phải vét hết lớp bùn đáy tới lớp đất dẻo, lớp bùn này có thể phơi ráo nước hoặc khô để sau
này trả lại đáy ao.
Dùng cát đổ xuống đáy ao một lớp 5 - 10 cm. Tốt nhất trộn vôi với cát rồi lắng xuống đáy để sau
này lươn không đào sâu được. Có thể trộn vôi với cát theo tỷ lệ 5 - 6 kg vôi trộn với 1m
3
cát.
Sau khi trộn xong, láng khắp đáy hồ và đầm nén cho cứng. Bờ ao cũng phải lấp hết hang hốc và
đầm cho cứng.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Đổ một lớp sình khoảng 20 - 30 cm, tốt nhất nên sứ dụng bùn mới hoặc sử dụng lại bùn đáy mới
vét lên đã được phơi khô.
Cần phải đắp một cù lao ở giữa ao, mương để hạn chế lươn đào hang xung quanh bờ. Diện tích
cù lao thường chiếm khoảng 1/4 - 1/5 diện tích ao hồ. Nếu mương dài và nhỏ thì nên đắp cù lao
ở một phía bờ mương hoặc giữa mương. Cù lao phải cao hơn mực nước 5 - 10 cm nhưng phải
thấp hơn bờ ao 50 - 60 cm. Trên mặt cù lao có thể trồng cỏ hoặc các loại khoai môn nước
3.1.3 Nuôi lươn trong hồ đất đắp có lót cao su
Chọn nơi đất cứng để đào hồ nuôi lươn. Thông thường chỉ nên đào sâu khoảng 0,3 - 0,5m, lấy
đất này đắp lên thành bờ. Đáy và bờ phải được đầm nén cho kỹ.
Diện tích đào và đắp tùy theo điều kiện cụ thể, thông thường nên đào và đắp hồ có diện tích 10 –
12 m
2
.
Dùng cao su (loại dùng để phơi lúa) để lót toàn bộ đáy và thành hồ
Hồ đất lót cao su nuôi lươn
1. Lớp cao su lót đáy và thành hồ đất
2. Lớp bùn
3. Cù lao
4. Phần đất đắp bờ
5. Mặt đất trước khi đào hồ
6. Lớp nước trong hồ 10 - 15cm
Sau khi lót cao su xong, đổ một lớp sình 20 - 25 cm và đắp một cù lao (có thể đắp ở giữa hồ
hoặc một phía nào đó của hồ). Cù lao phải đắp cao hơn mặt nước 5 - 10 cm và thấp hơn bờ
khoảng 40 - 50 cm.
Sau khi hoàn tất việc lót cao su, đắp cù lao và tạo một lớp bùn đáy thì cấp nước vào. Mực nước
trung bình 10 - 15 cm.
3.2 Thả giống lươn
Nguồn lươn giống hiện nay ở Đồng Bằng Sông Cửu Long chủ yếu được đánh bắt ở ngoài tự nhiên. Kích
thước lươn giống bắt được dao động rất lớn và phụ thuộc vào mùa vụ. Thông thường lươn giống vào
tháng 8 - 10 theo phương pháp xúc mô có chất lượng cao hơn so với lươn đánh bắt bằng phương pháp
đặt chúm, câu hoặc tát đìa. Lươn giống đánh bắt theo phương pháp xúc mô thường có kích thước đều
(60 – 70 con/kg) và khỏe mạnh.
Khi thả lươn chúng ta nên chú ý không nên thả lươn quá lớn (100g/con) vì loại này khi đánh bắt đã bị
vuốt cho gãy xương sống cho khỏi bò mất, do vậy lươn sẽ chết sau 7 - 10 ngày thả. Ngoài ra lươn đươc
đánh bắt bằng mồi thuốc dân gian cũng không nên thả vì loại này cũng dễ chết sau khi thả vài ngày và
thường chết rộ sau khi thả 10 - 15 ngày.
Nói tóm lại, lươn có kích thước lớn, lươn đánh bắt bằng mồi thuốc, lươn loại nhỏ ở các vựa thu mua
chúng ta không nên thả vì loại này thường có tỷ lệ chết rất cao khi thả nuôi.
Mật độ thả: Mặc dù lươn có khả năng chịu đựng tương đối cao nhưng không nên thả quá dầy. Nếu thả
mật độ cao sẽ dẫn đến tình trạng lươn lớn không đều. Trung bình thả 1,0 - 1,5 kg/m2 đáy hồ, ao.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Trước khi thả lươn cần xử lý qua nước muối 3 – 5 % trong 5 - 7 phút để phòng bệnh cho lươn.
3.3 Chế độ chăm sóc
3.3.1 Thức ăn
Do lươn ăn rất tạp nên có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau để nuôi. Tuy nhiên những loại thức
ăn có nguồn gốc là động vật như tép, óc, cá, nòng nọc, ruột gà, vịt... thường có tác dụng làm lươn lớn rất
nhanh so với thức ăn có nguồn gốc thực vật như cám.
Chúng ta cũng có thể sử dụng các loại thức ăn cho gia cầm hiện nay để nuôi lươn hoặc tự phối chế thức
ăn đơn giản phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để nuôi lươn vẫn có thể đem lại kết quả tốt
như sau:
Cám nhuyễn: 64%
Bột cá lạt: 35%
ADE + bột gòn + khoáng: 1%
Trộn đều các thứ sau đó cho vào máy ép đùn thủ công để tạo thành thức ăn viên, phơi khô (viên
thức ăn lớn hay nhỏ tùy theo kích thước của lươn).
Lượng thức ăn cho mỗi ngày chiếm 5 – 7 % trọng lượng thân và nên cho ăn 2 - 3 lần trong ngày. Không
nên cho tất cả lượng thức ăn dồn vào một lần vì làm như vậy lươn ăn không hết, thức ăn phân hủy gây
thối nước, lươn dễ bị bệnh. Thức ăn nên được rải đều (đặc biệt gần khu vực cù lao là nơi lươn trú ẩn) để
lươn có cơ hội ăn được nhiều hơn.
3.3.2 Quản lý hàng ngày
Cần phải giử môi trường nước luôn sạch sẽ và mát. Trung bình 3 - 4 ngày thay nước 1 lần cho
lươn.
Khi thời tiết nóng kéo dài cần phải có biện pháp che mát cho ao hồ nuôi hoặc dùng lục bình thả
trên mặt hồ với diện tích khoảng 20 – 25 % mặt nước.
Khi trời mưa to cần kịp thời rút bớt nước đề phòng nước đầy tràn bờ lươn trốn mất.
Thường xuyên theo dõi để loại bỏ lươn chết (lươn bị bệnh hoặc sắp chết thường nằm trên mặt
bùn đáy) tránh thối nước.
KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI
(Artemia franciscana)
Nhóm nghiên cứu Artemia.
Trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
I. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI PHÂN LOẠI VÀ PHÂN BỐ
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
1. Vị trí phân loại
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Lớp phụ: Branchiopoda
Bộ: Anostraca
Họ: Artemiidea
Giống: Artemia
2. Đặc điểm về hình thái
Artemia phát triển trải qua các giai đoạn:
- Ấu trùng mới nở (instar I =nauplius, có chiều dài 400-500 µm) có màu vàng cam, có một mắt màu đỏ
ở phần đầu và ba đôi phụ bộ. Ấu trùng giai đoạn I không tiêu hóa được thức ăn vì bộ máy tiêu hóa
chưa hoàn chỉnh. Lúc này, chúng sống dựa vào nguồn noãn hoàng.
- Sau khoảng 8 giờ từ lúc nở, ấu trùng lột xác trở thành ấu trùng giai đoạn II (instar II). Lúc này, chúng
có thể lọc và tiêu hóa các hạt thức ăn cỡ nhỏ có kích thước từ 1 đến 50 µm và bộ máy tiêu hóa đã
bắt đầu hoạt động. Ấu trùng tăng trưởng và trải qua 15 lần lột xác trước khi đạt giai đoạn trưởng
thành. Các đôi phụ bộ xuất hiện ở vùng ngực và dần dần biến thành chân ngực. Mắt kép xuất hiện ở
hai bên mắt
- Từ giai đoạn 10 trở đi, các thay đổi về hình thái và chuyên hóa chức năng của các cơ quan trong cơ
thể bắt đầu, chúng có sự biệt hóa về giới tính. Ở con đực anten của chúng phát triển thành càng
bám, trong khi đó anten của con cái bị thoái hóa thành phần phụ cảm giác (râu cảm giác). Các chân
ngực được biệt hóa thành ba bộ phận chức năng: Các đốt chân chính, các nhánh chân trong (vận
chuyển và lọc thức ăn) và nhánh chân ngoài dạng màng (mang).
- Artemia trưởng thành (dài khoảng 10-12 mm) có cơ thể kéo dài với hai mắt kép, ống tiêu hóa thẳng,
râu cảm giác và 11 đôi chân ngực. Con đực có đôi gai giao cấu ở phần sau của vùng ngực (vị trí sau
đôi chân ngực thứ 11) và con cái rất dễ nhận dạng nhờ vào túi ấp hoặc tử cung nằm ngay sau đôi
chân ngực thứ 11.
Hình 1: : Vòng đời của Artemia (theo Sorgeloos và ctv., 1980)
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
3. Phân bố
Ngày nay, sự phân bố của Artemia được chia làm hai nhóm:
Những loài thuộc về Cựu thế giới (Old World) là những loài bản địa đã tồn tại từ rất lâu trong các
hồ, vịnh tự nhiên.
Những loài thuộc về Tân thế giới (New World) là những loài mới xuất hiện ở những vùng trước
đây không có sự hiện diện của Artemia. Sự có mặt của chúng do người, chim hoặc là gió tạo ra
mà tiêu biểu là loài Artemia franciscana (đại diện cho loài Artemia ở Tân thế giới) đã được sử
dụng rộng rãi để thả nuôi ở nhiều ruộng muối trên khắp các lục địa.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
1. Đặc điểm môi trường sống
Artemia chỉ có thể tìm thấy ở những nơi mà vật dữ (cá tôm, giáp xác lớn) không thể xuất hiện (cao hơn
70 ppt). Ở độ mặn bão hòa (≥250 ppt) Artemia chết đồng loạt do môi trường vượt ngưỡng chịu đựng (trở
nên gây độc) và việc trao đổi chất cực kỳ khó khăn.
Các dòng Artemia khác nhau thích nghi rộng với sự biến đổi môi trường khác nhau đặc biệt là nhiệt độ
(6-35
o
C), độ muối (độ mặn của nước) và thành phần ion của môi trường sống. Ở các thủy vực nước mặn
với muối NaCl là thành phần chủ yếu tạo nên các sinh cảnh Artemia ven biển và các sinh cảnh nước
mặn khác nằm sâu trong đất liền, chẳng hạn hồ Great Salt Lake (GSL) ở Utah, Mỹ. Các sinh cảnh
Artemia khác không có nguồn gốc từ biển nằm sâu trong lục địa có thành phần ion khác rất nhiều so với
nước biển: Vực nước sulphate (Chaplin lake, Saskatchewan, Canada), vực nước carbonate (hồ Mono
Lake, California, Mỹ), và các vực nước giàu lân (rất nhiều hồ ở Nebraska, Mỹ).
Artemia được nuôi rộng rãi ở Việt nam thuộc dòng Artemia franciscana, mặc dù có nguồn gốc từ Mỹ
(San Francisco Bay, USA) nhưng sau thời gian thích nghi dòng này gần như đã trở thành dòng bản địa
của Việt nam và chúng có nhiều đặc điểm khác xa so với tổ tiên chúng đặc biệt là khả năng chịu nóng.
Hiện tại chúng có thể phát triển tốt trong điều kiện:
- Độ mặn: 80-120 phần ngàn
- Nhiệt độ: 22-35oC
- Oxy hoà tan: không thấp hơn 2 mg/l
- pH từ trung tính đến kiềm (7.0-9.0)
2. Đặc điểm về dinh dưỡng
Artemia là loài sinh vật ăn lọc không chọn lựa, chúng sử dụng mùn bã hữu cơ, tảo đơn bào và vi khuẩn
có kích thước nhỏ hơn 50µm. Các sinh cảnh tự nhiên có Artemia hiện diện thường có chuỗi thức ăn đơn
giản và rất ít thành phần giống loài tảo. Artemia thường xuất hiện ở những nơi có nồng độ muối cao,
vắng mặt các loài tôm, cá dữ và các động vật cạnh tranh thức ăn khác như luân trùng, giáp xác nhỏ ăn
tảo. Ở các sinh cảnh này nhiệt độ, thức ăn và nồng độ muối là những nhân tố chính ảnh hưởng đến mật
độ của quần thể Artemia hoặc ngay cả đến sự vắng mặt tạm thời của chúng.
Trong nghề nuôi Artemia trên ruộng muối nông dân thường sử dụng phối hợp phân chuồng (chủ yếu là
phân gà) kết hợp với phân vô cơ (Urea, DAP...) để gây màu trực tiếp (trong ao nuôi Artemia) hoặc gián
tiếp (ngoài ao bón phân) trước khi cấp nước “màu” (nước tảo) vào trong ao nuôi. Phân gà khi được bón
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
trực tiếp vào ao nuôi, ngoài việc cung cấp dinh dưỡng kích thích tảo phát triển, phân còn là nguồn thức
ăn trực tiếp cho Artemia. Ngoài ra, khi lượng nước tảo cung cấp vào ao hàng ngày thiếu hụt, nông dân
còn sử dụng cám gạo, bột đậu nành hoặc các loại phụ phẩm nông nghiệp khác...để duy trì quần thể
Artemia.
III. KỸ THUẬT NUÔI ARTEMIA TRÊN RUỘNG MUỐI
1. Thời vụ sản xuất Artemia?
Trùng hợp với thời vụ sản xuất muối khác nhau ở từng địa phương, chẳng hạng ở khu vực Vĩnh châu
Bạc liêu mùa vụ sản xuất Artemia bắt đầu từ cuối tháng 11 và kết thúc vào đầu tháng 6 dương lịch hàng
năm, trong khi quá trình này kéo dài từ đầu tháng 1 và kết thúc vào cuối tháng 8 ở khu vực Cam ranh.
Tuy nhiên, mùa vụ có thể kéo dài nếu nước mặn được chuẩn bị sớm và độ mặn trong ao được duy trì ở
các tháng đầu của mùa mưa.
2. Xây dựng ao nuôi Artemia:
- Chọn điểm: Ngoài các yêu cầu về kỹ thuật trong lựa chọn địa điểm cấy thả, trước khi xây dựng kế
hoạch cần lưu ý các điểm sau:
+ gần nguồn nước biển (khắc phục tình trạng thiếu nước nhất là trong mùa khô)
+ thuận lợi trong giao thông (để vận chuyển nguyên liệu, phân bón...)
+ an ninh (tránh trộm cắp, mất mát)
- Diện tích: Để dể quản lý, diện tích ao nuôi khoảng 0.5 đến 1 ha là thích hợp nhất. Ao thường có dạng
hình chử nhật với chiều dài gấp 3 đến 4 lần chiều rộng.
- Hướng ao: Trục dài hoặc đường chéo của ao nằm xuôi theo hướng gió chính của địa bàn, để giúp cho
việc thu trứng sau này được thuận lợi, vì trứng nổi trên mặt nước sẻ được gió thổi tấp vào bờ cuối gió.
- Kỹ thuật xây dựng công trình: Ao nuôi thường được xây dựng theo hai dạng: riêng rẽ họăc trong cùng
một hệ thống, ở ao riêng rẽ thường tốn kém hơn vì bờ ao cần được xây dựng chắc chắn và có hệ thống
cấp tháo nước riêng biệt, ở hệ thống kết hợp chỉ cần chú ý tu sửa đê bao của toàn hệ thống còn kênh
cấp tháo thì được phân bổ chung cho các ao nên giảm được chi phí.
Các chỉ tiêu cần lưu ý trong xây dựng:
Chỉ tiêu Ao đơn Ao trong hệ thống
Bờ bao (m)
chân 4
mặt 2
cao 1
bờ lưu thông 0.5
Bờ ao (m)
chân 3 2
mặt 1.5 1
cao 0.7 0.7
bờ lưu thông 0.5 0.5
Mương quanh (m)
mặt 3 2
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
sâu 0.3 0.3
Máng cấp (m) máng nổi
mặt 2
cao 1
Máng tháo (m) máng chìm
mặt 2
sâu 0.5
Cống cấp tháo(m) gỗ hoặc xi măng
khẩu đô 0.5 0.5
Lưu ý: ở những nơi đất mới khai thác, hoặc dể thẩm lậu, bờ ao cần được xây dựng gia cố chắc chắn
(đầm nén, tô láng bờ...)
- Công trình phụ: Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý, ao nuôi cần được lắp đặt các công trình phụ sau:
+ lưới lọc cá: Dùng lưới nylon (cở mắc lưới từ 1-1.5 mm) để làm khung lọc nước hoặc may theo
dạng vèo để hứng nguồn nước cấp vào ao.
+ đập tràn: đập đất hoặc phai gổ lắp ở cống cho phép lớp nước nhạt tầng mặt (mùa mưa) được
tháo bỏ nhằm duy trì độ mặn cho ao nuôi.
+ nơi bón phân: được bố trí ngay nguồn nước cấp vào ao nuôi, thường được rào lại bằng tre
hoặc lá dừa nước để tránh phân bị trôi dạt.
+ rào phá sóng: được lắp đặt ở bờ cuối gió bằng các vật liệu rẻ tiền (tre, lá dừa nước...), nhằm
phá sóng để trứng dể tập trung nơi thu hoạch.
+ vách ngăn trứng: thường dùng nylon để lót bờ nơi thu hoạch nhằm tránh trứng thất thoát vào
bờ đất, tuy nhiên cách này khá đắt tiền nên người dân thường dùng bùn nhão để tô láng góc bờ
chỗ thu hoạch.
3. Quá trình thu gom nước mặn (đi nước) để thả Artemia
Nước mặn được chuẩn bị theo kỹ thuật làm muối, theo nguyên tắc bốc hơi nước biển để tăng độ mặn,
để rút ngắn thời gian này nhiều biện pháp đã được sữ dụng như: nuôi nước mỏng, bừa trục, sang ao...
để có đủ lượng nước và độ mặn theo yêu cầu, thường phải mất từ 2 đến 3 tuần ở khu vực Vĩnh châu
Bạc liêu.
4. Các yêu cầu tối thiểu cho ao trước khi xuống giống
- Lượng nước và độ mặn: Lúc đầu vụ do nhiệt độ môi trường còn thấp, chỉ cần mực nước ngập trảng
(đáy ao) vài phân (một đến hai lóng tai) là có thể xuống giống, tuy nhiên cũng cần tính toán sao cho lúc
cá thể đạt cở trưởng thành mực nước phải đủ sâu để Artemia lẩn tránh sự săn bắt của chim.
Mặc dù Artemia có thể sống ở độ muối thấp, ta không nên cấy thả Artemia ở độ muối dưới 80 phần ngàn
(8 chữ), vì lúc này còn hiện diện rất nhiều: Fabrea, copepod, tảo độc...hoặc tôm cá dữ làm hạn chế tăng
trưởng hoặc tiêu diệt hoàn toàn số Artemia mới thả.
- Phòng ngừa địch hại: Địch hại thường gặp và cách phòng ngừa
Địch hại Cách phòng ngừa
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
+ Ao chưa thả giống
.Cá các loại Rút cạn nước ao, dùng vôi hoặc thuốc cá
.Lab-lab, rong tạp các
loại Dọn ao, bừa trục, phơi nền đáy
+ Ao đã xuống giống
.Fabrea,copepod, tảo
độc Cấp nước có độ muối cao hơn 80ppt
.Cá các loại Dùng lưới chài để giăng bắt hoặc sang ao
để gạn cá tạp
.Lab-lab, rong tạp các
loại
Bừa trục, dọn đáy ao thường xuyên nếu
cần thì tháo cạn cải tạo lại
.Chim Dùng lưới gió, bù nhìn, pháo hoặc có
người canh giữ trực tiếp
Chuẩn bị thức ăn cho ao nuôi Artemia:
Bước này chỉ cần thiết cho những ao nghèo tảo thức ăn (nước ao không màu hoặc màu nhạt), để gây
màu thường dùng các loại phân vô cơ (urea, lân...) hoặc hữu cơ (phân heo, phân gà, phân bò, phân dê,
phân cút...) với liều lượng
+ Phân hữu cơ: 500 đến 1000 kg/ha
+ Phân vô cơ : 50 đến 100 kg/ha
5. Thả giống
- Kỹ thuật ấp nở :
+ Dụng cụ: cân, xô, chậu, lưới lọc, ống dẫn khí, đá bọt, máy thổi khí, đèn huỳnh quang...
+ Điều kiện ấp nở:
.ánh sáng: thắp đèn huỳnh quang cách mặt nước bể ấp khoảng 2 tấc
.nhiệt độ: 25-30 độ C
.độ muối : nước biển 35 ppt (ba chữ rưỡi) được dùng để ấp trứng
.pH: 8.1 đến 8.3
.mật độ ấp: không nên nhiều hơn 5g trứng cho mỗi lít nước
+ Thao tác: Nước được lọc sạch trước khi cho vào bể ấp; cân trứng theo đúng mật độ qui định
cho vào bể ấp, kết hợp sục khí để đảo trộn nhằm thúc đẩy quá trình hút nước của trứng để kích
thích sự phát triển phôi. Sau 20 đến 24 giờ trứng nở tập trung, sẳn sàng cho việc cấy giống.
Những điểm cần lưu ý trong thao tác thả giống:
+ Cở giống thả: Cấy thả bằng giống mới nở (Naupli): hình thức này rất phổ biến, đặc biệt ở những
nơi mới bắt đầu thử nghiệm nuôi Artemia. Cấy giống cở nhỏ (Naupli giai đoạn I) có trở ngại là rất khó
quan sát cá thể ở những ngày đầu, nhưng chúng có thể chịu đựng sự sai khác lớn về nhiệt độ và độ
muối giữa nơi ấp nở và nơi cấy thả; do đó nếu kéo dài thời gian ấp nở ấu thể sẻ phát triển đến giai đoạn
lớn hơn (Naupli giai đoạn II; tuỳ điều kiện nhiệt độ trong bể ấp, thường thời gian để chuyển từ Naupli giai
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
đoạn I sang giai đoạn II mất khoảng 5 đến 8 giờ), khả năng trên sẻ giãm đi làm gia tăng tỉ lệ tử vong lúc
cấy thả.
Cấy thả bằng giống lớn: khi cấy thả theo phương pháp này cần lưu ý là phải thuần hoá giống thả (cho
một phần nước ao định thả vào thùng giống vừa chuyển đến) để chúng thích nghi dần với nhiệt độ và độ
muối trước khi cấy thả vào ao.
+ Thời gian thả thích hợp: Thích hợp nhất là thời gian lúc sáng sớm (6 đến 7 giờ) hoặc chiều tối (17
đến 19 giờ), điều này cần nắm để tính toán kế hoạch ấp nở cho hợp lý.
+ Mật độ thả: Thường mật độ thả ở ao đất được đề nghị là 50 cá thể cho mỗi lít, tuy nhiên theo quan
sát thực tế nếu ao nuôi được cấy thả ở mật độ lớn hơn 100 cá thể trên lít thì sau 2 tuần ao nuôi bắt đầu
cho trứng, trong khi ở ao có mật độ thưa, quần thể phải trải qua giai đoạn tăng gia mật độ trước khi tham
gia cho trứng.
+ Vận chuyển giống: Nếu nơi cấy thả khá xa (thời gian vận chuyển từ một giờ trở lên) nơi ấp nở hoặc
ao cung cấp giống, giống nở cần được xan thưa, đóng oxy và hạ nhiệt độ của môi trường vận chuyển để
giãm thấp tỉ lệ hao hụt.
+ Nơi thả giống: Thích hợp nhất là bờ ao phía trên hướng gió, hoặc đầu nguồn nước cấp nhằm đãm
bảo cho giống được phân bố đều trong ao.
+ Nơi thu mẫu để đánh giá: Đối với giống lớn thì dể dàng quan sát sự tồn tại của chúng trong ao vừa
cấy thả, ngược lại nếu cấy giống ấp nở thì rất khó phát hiện chúng trong hai ba ngày đầu; tuy nhiên
chúng có tập tính phân bố ở nơi trên hướng gió, hoặc góc bờ. Dùng vợt bằng lưới mịn để thu và quan
sát mẫu.
+ Quan sát mẫu: Ấu thể Artemia có màu trắng sữa hoặc trắng hồng, chúng bơi lội theo đường zig-
zăg nhưng đường di chuyển ngắn hơn của Copepod, có tập tính hướng quang dương (tập trung nơi có
nhiều ánh sáng).
+ Những dấu hiệu xấu cho ao nuôi: Với sự xuất hiện riêng lẻ hoặc kết hợp của các yếu tố sau đây:
fabrea, copepod, cá dữ, lab-lab, độ trong thấp, nhiệt độ cao, chim xuất hiện...các biện pháp khắc phục
như đã nêu trên.
6. Những biện pháp chính trong quản lý ao nuôi:
+ Cấp - tháo nước: Nhằm bù đắp sự thất thoát cột nước do thẩm lậu hoặc bốc hơi, mặt khác để cung
cấp tảo thức ăn (nước xanh), lượng nước cấp vào ao phải thoả mãn việc duy trì độ muối (90 đến 120
phần ngàn) và độ đục (25 đến 35 cm) trong phạm vi tối hảo.
Tương tự, để đãm bảo chất lượng nước trong ao, thường thì sau một tháng rưỡi đến hai tháng tính từ
lúc xuống giống, nên tiến hành thay từ 30% đến 50% lượng nước trong ao.
+ Bón phân - cho ăn:
.bón phân (phân ga)ì 500 đến 1000 kg/ha/tháng
Uréa 50 đến 100 kg/ha/tháng
Phân gà (hữu cơ) được bón trực tiếp vào ao Artemia (chúng lọc các chất dinh dưỡng hoặc vi khuẩn có
trong phân) hoặc ao bón phân để kích thích tảo phát triển trước khi đưa vào ao nuôi; đối với Uréa (vô cơ)
chỉ nên bón ở ao bón phân. Để đơn giản trong việc đánh giá cơ ở thức ăn tự nhiên của ao bón phân và
ao nuôi, ngoài độ đục cần thiết như đã nêu trên, thang màu đề nghị dưới đây dùng để đánh giá thành
phần tảo trong ao:
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Màu nước Thành phần tảo
Vàng nâu Khuê tảo (Diatom) thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao
cho Artemia
Xanh lá
cây nhạt
Tảo lục (Chlorophyta) đặc biệt là Chlamydomonas,
không tốt cho Artemia
Xanh lá
cây đậm
Tảo lam (Cyanophyta), nhiều độc tố lại kích thước lớn
nên Artemia không thể sử dụng được
.Cho ăn: thỉnh thoảng cám gạo được bổ xung (từ 10 đến 20 kg/ha/ngày) khi ao nuôi thiếu thức ăn, tuy
nhiên hiệu quả sử dụng cám gạo của Artemia rất thấp (từ 10 đến 20%), nên phần lớn cám gạo kết lắng
xuống đáy gây ô nhiễm môi trường (có thể khắc phục bằng cách sàng lọc kỹ trước khi đưa xuống ao), vì
giá đắt nên việc dùng cám gạo không kinh tế lắm.
+ Chế độ bừa trục: Vừa có tác dụng đão trộn phân bón trong ao, vừa có tác dụng diệt các mầm rong
đáy (lab-lab), khi độ đục thích hợp có thể giãm chế độ bừa trục để hạ giá thành trong chi phí sản xuất.
+ Gia cố công trình: Hàng ngày bên cạnh các hoạt động nêu trên, trong quản lý ao cần phải thường
xuyên chăm sóc bờ bọng tránh rò gỉ thẩm lậu, kiểm tra lưới lọc để tránh sự xâm nhập của cá dữ...
7. Thu Hoạch và sơ chế sản phẩm
Tuỳ theo yêu cầu mà sản phẩm thu hoạch từ ao Artemia có thể là trứng bào xác hoặc sinh khối.
+ Trứng bào xác (cyst): Tuỳ theo cách quản lý ao và tình hình phát triển của quần thể, thường sau 2
tuần hoặc hơn tính từ lúc xuống giống, con cái bắt đầu mang trứng: trứng trắng (đẻ con), hoặc trứng nâu
(trứng bào xác). Sau vài ngày ở ao có con cái mang trứng bào xác, ta có thể quan sát trứng nổi trên mặt
của góc ao cuối gió có màu vàng sậm đến vàng nâu.
Dùng vợt lưới mịn hoặc ca để vớt trứng, do trứng có lẩn rác bẩn nên cần tách trứng bằng các lưới có các
cở khác nhau:
- Lưới I: 1000 um (1mm)
- Lưới II: 400 um (0.4mm)
- Lưới III: 100 - 150 um (0.1-0.15mm)
Sau đó rữa sạch lại nhiều lần bằn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_sinh_hoc_va_ky_thuat_nuoi_mot_so_loai_thuy_san_2984.pdf