Ngày nay, hầu như mọi người đều hiểu rằng nước là một trong những nguồn tài
nguyên thiên nhiên cơ bản và quý giá nhất. Hàng loạt tài liệu khoa học công bố
trong nhiều thế kỷ vừa qua trên thế giới đã nói lên điều đó. Khoảng hơn hai trăm
năm trước đây, trong sách “Vân Đài loại ngữ”, nhà bác học Việt Nam Lê Quý
Đôn đã viết:
"Vạn vật không có nước không thể sống được,
Mọi việc không có nước không thể thành được".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có câunói tuyệt vời trong huấn thị của Người tại Hội
nghị Thủy lợi toàn miền Bắc họp tại Bắc Ninh, ngày 14-9-1959 như sau:
"Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có
nước, thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu nước mạnh.
. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hoà với nhau để nâng cao
đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội"1.
402 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1161 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đặc điểm của tài nguyên và môi trường nước lục địa của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Đặc điểm của tài nguyên và
môi trường nước lục địa
của Việt Nam
Ngày nay, hầu như mọi người đều hiểu rằng nước là một trong những nguồn tài
nguyên thiên nhiên cơ bản và quý giá nhất. Hàng loạt tài liệu khoa học công bố
trong nhiều thế kỷ vừa qua trên thế giới đã nói lên điều đó. Khoảng hơn hai trăm
năm trước đây, trong sách “Vân Đài loại ngữ”, nhà bác học Việt Nam Lê Quý
Đôn đã viết:
"Vạn vật không có nước không thể sống được,
Mọi việc không có nước không thể thành được".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có câu nói tuyệt vời trong huấn thị của Người tại Hội
nghị Thủy lợi toàn miền Bắc họp tại Bắc Ninh, ngày 14-9-1959 như sau:
"Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có
nước, thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu nước mạnh...
... Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hoà với nhau để nâng cao
đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội"1.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Một số người cho rằng, nước trong thế kỷ XXI sẽ quý như dầu mỏ trong thế kỷ
XX. Nói như vậy không sai, nhưng chưa phải hoàn toàn đúng vì dầu mỏ tác động
chủ yếu về năng lượng, còn nước thì tác động đến mọi mặt của cuộc sống vật
chất và tinh thần của con người. Tài nguyên nước ngọt, ở Việt Nam tương đối
phong phú, đa dạng, nhưng lại rất phức tạp về tính chất và đang có những diễn
biến mà nếu không được quản lý tích cực và kịp thời sẽ đem lại những khó khăn
to lớn cho cuộc sống của người dân và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Thuận lợi cơ bản: Tài nguyên nước tương đối phong phú
Về nước mặt, trung bình hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận được 1.944mm nước
mưa, trong đó bốc hơi trở lại không trung 1.000mm, còn lại 941mm hình thành
một lượng nước mặt khoảng 310 tỷ m3. Tính bình quân, mỗi người dân Việt, có
thể hứng được một lượng nước bằng 3.870 m3 mỗi năm; hoặc 10,6 m3 tức
10.600 lít nước mỗi ngày. Trong lúc tại các nước công nghiệp phát triển nhất,
tổng nhu cầu về nước trong một ngày bình quân theo đầu người, bao gồm cả
nước sinh hoạt, nước cung cấp cho nông nghiệp và công nghiệp cũng chỉ vào
khoảng 7.400 lít/người.ngày; bao gồm 340 lít cho sinh hoạt, 2.540 lít cho nông
nghiệp và 4.520 lít cho công nghiệp. Ở nước ta, tại các đô thị lớn, lượng nước
sinh hoạt cấp cho mỗi người/ngày hiện nay chỉ mới vào khoảng 100 - 150 lít.
Mục tiêu của Chính phủ Việt Nam là cung cấp cho nhân dân nông thôn khoảng
70 lít/người.ngày vào năm 2010 và 140 lít/người.ngày vào năm 2020. Ở một số
vùng đặc biệt khan hiếm nước vào mùa khô, như vùng Lục Khu thuộc tỉnh Cao
Bằng, mục tiêu phấn đấu hiện nay là cung cấp cho mỗi người, mỗi ngày 15 lít
nước. Chỉ riêng nguồn nước ngọt từ mưa tiềm năng đã vượt khá xa yêu cầu về
cấp nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Ngoài nguồn nước mặt từ mưa, Việt Nam hiện còn có nguồn nước rất lớn do các
con sông xuyên biên giới đem từ lãnh thổ các nước ngoài vào như sông Hồng,
sông Mã, sông Cả, sông Mê Công. Lượng nước này ước tính bằng 520 tỷ m3, gấp
1,7 lần lượng nước ngọt hình thành trong nước. Một số sông xuyên biên giới như
sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn, Bằng Giang ở Cao Bằng, chuyển một lượng nước từ
Việt Nam qua lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên lượng này không đáng kể so với
tổng lượng nước hình thành trên lãnh thổ Việt Nam . Các phụ lưu của sông Mê
Công, như Nậm Rốm, Sê Kông, Sê Băng Hiêng, Sê San, Srê Pok chuyển một
lượng nước khá lớn từ lãnh thổ Việt Nam vào các nước láng giềng như Cộng hoà
dân chủ nhân dân Triều Tiên, Lào, Campuchia, nhưng rồi từ các nước này lượng
nước đó lại chảy trở lại vào Đồng bằng sông Cửu Long.
Tổng hợp hai nguồn nước mặt: nguồn hình thành trên lãnh thổ quốc gia và nguồn
từ nước ngoài chảy vào, nói một cách khái quát, Việt Nam có tổng lượng nước
mặt trung bình năm bằng khoảng 830 tỷ m3. Trong đó phần hình thành trong
nước là 310 tỷ, chiếm 37%; phần từ nước ngoài vào là 520 tỷ, chiếm 63%.
Tài nguyên nước nói trên tồn tại dưới những dạng thức khác nhau như sông, hồ,
kênh, rạch, đầm phá, vừa lưu giữ, vận chuyển, chuyển hóa nước, vừa tạo nên tài
nguyên đa dạng sinh học và nguồn cảnh sắc thiên nhiên vô cùng phong phú và đa
dạng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Về sông, nước ta có 2.360 con sông với chiều dài từ 10km trở lên và 26 phân lưu
của các sông lớn. Trong đó, có 9 sông có lưu vực lớn hơn 10.000km2 là sông
Hồng, sông Thái Bình, sông Kỳ Cùng - Bằng Giang, sông Mã, sông Cả, sông
Thu Bồn, sông Ba, sông Srê Pok - Sê San, sông Đồng Nai và sông Cửu Long.
Theo lưu vực và yêu cầu quản lý nguồn nước, có thể phân chia các sông Việt
Nam thành ba nhóm: nhóm thượng nguồn ở nước ngoài, hạ nguồn ở Việt Nam
như sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Đồng Nai; nhóm thượng nguồn ở Việt
Nam, hạ nguồn ở ngoài nước như sông Kỳ Cùng, sông Bằng Giang; nhóm có
một số sông nhánh thượng nguồn ở Việt Nam, trung nguồn ở nước ngoài và hạ
nguồn sông chính ở Việt Nam như sông Mê Công.
Nước ta có nhiều hồ tự nhiên như hồ Ba Bể ở Bắc Kạn, với diện tích khoảng
5km2; Hồ Tây ở Hà Nội, 4,5km2; Biển Hồ ở Gia Lai, 8km2; hồ Lắk ở Đắk Lắk,
10km2. Về hồ nhân tạo, có 750 hồ lớn và trung bình và hàng nghìn hồ nhỏ. Trong
đó có 7 hồ với dung tích trên 500 triệu m3: Hòa Bình, 5.680 triệu m3; Trị An,
2.547 triệu m3; Thác Bà, 2160 triệu m3; Thác Mơ, 1311 triệu m3; Dầu Tiếng,
1.111 triệu m3; Yaly, 779 triệu m3; Hàm Thuận - Đa Mi, 535 triệu m3. Một số
đập và hồ lớn hiện đang được xây dựng và chuẩn bị xây dựng trên sông Đà, sông
Gâm, sông Sê San, sông Đồng Nai.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Nước ta đã xây dựng khoảng 75 hệ thống thủy lợi vừa và lớn với diện tích tưới
tiêu của mỗi hệ thống từ 10.000ha đến 200.000ha, như các hệ thống: Bắc Hưng
Hải, sông Nhuệ, Thác Huống, Bắc Thái Bình, Đồng Cam, Ayun Hạ, Dầu Tiếng.
Ven biển có nhiều đầm, phá, bàu, trằm. Nổi tiếng là đầm phá Tam Giang - Cầu
Hai (Thừa Thiên - Huế), có diện tích bằng 216km2 mặt nước; Thị Nại (Bình
Định), 45km2; Trường Giang (Quảng Ngãi), 36,9km2; Cù Mông (Phú Yên),
30,2km2; Nước Ngọt (Bình Định), 26,5km2; Thủy Triều (Khánh Hòa), 25,5km2;
Ô Loan (Phú Yên), 18,0km2; Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), 16,0km2; Trà Ổ (Bình
Định), 14,4km2; Đầm Nại (Ninh Thuận), 12,0km2.
Bảng II.1. Số liệu so sánh tài nguyên nước của một số quốc gia của Viện Tài
nguyên Thế giới - WRI (2002 - 2004)
* Theo số liệu và cách tính của nước ta thì lượng nước mặt là 10.375m3/người,
chênh lệch khoảng 7%
Về nước dưới đất, tiềm năng của nước ta cũng tương đối lớn. Tổng trữ lượng có
tiềm năng khai thác được trên cả nước của các tầng trữ nước trên toàn lãnh thổ,
chưa kể phần hải đảo, ước tính gần 2000m3/s, tương ứng khoảng 60 tỷ m3/năm.
Trữ lượng này thay đổi nhiều theo các vùng: dồi dào nhất ở Đồng bằng sông
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ; khá nhiều ở Tây Nguyên và ít
hơn tại các vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc và duyên hải Bắc và Nam Trung Bộ.
Trữ lượng ở giai đoạn tìm kiếm và thăm dò sơ bộ mới đạt khoảng 8 tỷ m3/năm,
tức khoảng 13% tổng trữ lượng. Theo kết quả điều tra, khảo sát và nghiên cứu đã
có đến năm 1999 thì trữ lượng nước ngầm thuộc loại có thể khai thác ngay với
độ tin cậy cao (cấp A) vào khoảng 736.205m3/ngày; thuộc loại có thể khai thác
với độ tin cậy khá (cấp B) vào khoảng 939.625m3/ngày; thuộc loại đã được dự
báo là có khả năng khai thác (cấp C1), 2.007.165 và (C2), 10.848.451m3/ngày.
Tổng lượng đã khai thác chỉ mới vào khoảng 5% tổng trữ lượng. Trong các năm
tới lượng khai thác có thể lên tới khoảng 12 tỷ m3/năm. So sánh với thế giới trữ
lượng nước ngầm của Việt Nam ở vào mức trung bình.
Bảng II.2. Trữ lượng nước ngầm nhạt đã được đánh giá ở các vùng khác
nhau rên nước ta đến năm 1995
Nguồn: Nguyễn Kim Ngọc, Nguyễn Thượng Hùng, 2003
Việt Nam cũng có tài nguyên nước nóng và nước khoáng phong phú, đa dạng về
loại hình. Tài nguyên này được đánh giá có chất lượng tốt, có khả năng và một
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
phần đã được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như: sản xuất nước khoáng
đóng chai; thủy lý trị liệu trong y học, khai thác khí CO2; khai thác năng lượng
địa nhiệt. Theo số liệu điều tra tới năm 1999, cả nước có khoảng 400 nguồn nước
khoáng và nước nóng đã được khảo sát, trong đó 287 nguồn đã được công nhận.
Xét theo những số liệu như đã nêu trên có thể nói rằng Việt Nam là một quốc gia
tương đối giàu tài nguyên nước. Theo tài liệu của Viện Tài nguyên thế giới công
bố năm 2002 - 2003, thì hiện nay hàng năm lượng tài nguyên nước ngọt tái tạo
được trên mặt trái đất là 40.594km3, trung bình cho mỗi đầu người là 6.538m3.
Trị số trung bình tương ứng của nước ta là 11.189m3, gấp 1,7 lần trung bình của
thế giới. Tuy nhiên với lượng nước này nước ta cũng chỉ thuộc vào loại tương
đối phong phú về tài nguyên nước ngọt trên đầu người. Các nước nhiều nước như
Lào có tới 68.318m3/người; Campuchia, 30.561m3/người; Mianma
21.358m3/người. Các quốc gia ít nước như Trung Quốc chỉ có 2.185m3/người,
Hàn Quốc, 1.471m3/người. Nhiều nước nghèo tài nguyên nước chỉ có khoảng
500m3, thậm chí 50m3/người.năm.
Cũng như tại nhiều nơi khác trên thế giới, ở nước ta tài nguyên nước không chỉ
có giá trị về cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, mà còn là nguồn năng
lượng sạch, nguồn vật liệu của rất nhiều ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, cơ
sở thiên nhiên của các ngành thủy sản, giao thông, du lịch, giải trí, điều dưỡng, là
nhân tố quan trọng của sự tồn tại và phát triển của các hệ sinh thái, quyết định
chất lượng của cuộc sống vật chất và tinh thần của con người.
Tuy nhiên xét theo một số khía cạnh khác thì bên cạnh thuận lợi cơ bản nói trên
tài nguyên nước của nước ta có nhiều khó khăn và phức tạp.
Khó khăn thứ nhất: 2/3 tổng lượng nước mặt của Việt Nam phụ thuộc vào
nước ngoài
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Như trên đã trình bày, 63% tổng lượng dòng chảy nước mặt trên lãnh thổ Việt
Nam là từ các nước láng giềng: Trung Quốc, Thái Lan, Mianma, Lào và
Campuchia chảy vào. Các nước này đều đang ở trong tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển nông nghiệp, dịch vụ một cách nhanh chóng.
Quá trình phát triển này, dù bằng cách nào cũng sẽ đặt ra cho các nước nói trên
yêu cầu tận dụng hợp lý tài nguyên nước sản sinh trên lãnh thổ của họ. Chế độ
thủy văn của các dòng sông xuyên biên giới chảy vào nước ta sẽ thay đổi. Dòng
chảy nước sẽ được điều tiết theo những chiều hướng có khi không phù hợp với
yêu cầu kinh tế và sinh thái của ta. Khối lượng nước cần cho sinh hoạt, canh tác,
đẩy mặn, giao thông thủy vào mùa khô có thể sẽ không còn như trước. Chất
lượng nước của một số dòng sông sau khi đã tiếp nhận xả thải từ nhiều đô thị,
khu dân cư, khu nông nghiệp trên các vùng thượng lưu sẽ không thể còn độ trong
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
sạch như hiện nay.
Lấy sông Mê Công làm thí dụ. Mê Công là một con sông xuyên biên giới quan
trọng ở châu Á có tiềm năng rất lớn về các dạng tài nguyên nước. Từ những năm
cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX đã được các nước trong lưu vực và các tổ chức
quốc tế hết sức quan tâm việc quản lý hợp lý tài nguyên nước cùng các tài
nguyên thiên nhiên liên quan khác và các hoạt động phát triển trên lưu vực. Việc
hợp tác quản lý dòng sông quan trọng này được thực hiện trong khuôn khổ tổ
chức hợp tác quốc tế về phần hạ lưu sông Mê Công, cụ thể là của Ủy ban quốc tế
về hạ lưu sông Mê Công trước từ năm 1957 đến năm 1975, Ủy ban lâm thời hạ
lưu sông Mê Công từ năm 1975 đến năm 1995 và Ủy ban sông Mê Công
(Mekong River Commission, MRC) hiện nay. Qua nhiều đổi thay của lịch sử,
thành viên của các Ủy ban này là Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam . Địa
phận quản lý của các Ủy ban chỉ là phần "hạ lưu" sông Mê Công. Trung Quốc và
Mianma không phải là thành viên chính thức của Ủy ban và chỉ tham gia một
cách không chính thức vào một số cuộc họp của Ủy ban. Với đặc điểm như trên,
sông Mê Công là một dòng sông liên quốc gia. Theo thỏa thuận đã có giữa bốn
quốc gia thuộc phần hạ lưu lưu vực sông Mê Công là Thái Lan, Lào, Campuchia
và Việt Nam, không nước nào được xây dựng công trình trên dòng sông chính,
việc xây dựng các công trình quan trọng trên các sông nhánh lớn cũng cần thông
báo và tham khảo ý kiến của nhau.
Cho tới nay, ở phần hạ lưu trên dòng sông chính không có công trình nào, nhưng
ở phần thượng lưu thuộc địa phận lãnh thổ Trung Quốc, một loạt công trình thủy
điện, với đập cao, hồ chứa lớn đã được hoàn thành, vận hành phát điện, điều tiết
nước, hoặc đang được xây dựng và chuẩn bị xây dựng. Thủy điện Manwan, công
suất lắp máy 1.500MW, đập cao 126m, đã hoàn thành và phát điện năm 1996 là
một thí dụ. Trên các sông nhánh, Thái Lan, Lào và ở nước ta cũng đã và đang
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
xây dựng nhiều công trình phục vụ thủy điện và cấp nước cho nông nghiệp. Các
đập và hồ trên phần sông Sê San, chi nhánh của sông Mê Công, thuộc lãnh thổ
nước ta là thí dụ về các công trình này. Nếu trong tương lai các quốc gia ở
thượng nguồn sông Mê Công sẽ sử dụng một lưu lượng nước khoảng 1.200 -
1.500 m3/s để tưới ruộng trong mùa khô, hoặc nước của Biển Hồ sẽ được
Campuchia khai thác nhiều hơn cho nông, công nghiệp và sinh hoạt, thì Đồng
bằng sông Cửu Long của ta sẽ có nguy cơ vô cùng thiếu nước. Nạn xâm nhập
mặn sẽ đe dọa toàn vùng.
Vì vậy, nhìn một cách lâu dài, không thể khẳng định là nước ta sẽ luôn luôn có
tài nguyên nước phong phú với tổng lượng là 830 tỷ m3/năm, hay 10.375
m3/người.năm. Phần chắc chắn là phải dựa chủ yếu vào lượng nước hình thành
trên lãnh thổ là 310 tỷ m3/năm. Lượng nước có thể có trên đầu người sẽ phải tính
theo dân số ổn định xung quanh 100 triệu người.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Khó khăn thứ hai: tài nguyên nước phân bố rất không đều theo không gian
và thời gian
Lượng mưa, nhân tố chủ yếu hình thành tài nguyên nước trên lãnh thổ nước ta,
phân bố rất không đều theo không gian và thời gian. Bình quân toàn lãnh thổ
lượng mưa năm là 1.944mm. Tuy nhiên, lượng mưa này phân bố rất không đều
theo không gian. Có những nơi lượng mưa này đạt 8.000mm/năm như ở Bạch
Mã thuộc Thừa Thiên - Huế; 5.000mm/năm như ở Bắc Quang thuộc Hà Giang;
Nam Châu Lĩnh thuộc Quảng Ninh. Trong lúc có những nơi lại chỉ có
700mm/năm như ở thị xã Phan Rang, Ninh Thuận, thậm chí chỉ có 400mm/năm
như ở thị xã Phan Rí thuộc Bình Thuận. Trong từng phạm vi lãnh thổ nhỏ hơn
như tỉnh, huyện lượng mưa phân bố cũng rất không đều. Trong năm 2002, nhiều
tỉnh ở Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long
trong 3 - 4 tháng hầu như không có giọt mưa nào. Trong năm 2003, nhiều tỉnh ở
Tây Nguyên, duyên hải miền Trung đều có tình trạng không có mưa suốt trong 3
tháng mùa hè (Bảng II.3).
Bảng II.3. Lượng mưa trong một số tháng của năm 2002 tại một số địa điểm
(mm)
Nguồn: Niên giám Thống kê, 2002
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Tại tất cả các vùng trong nước, hàng năm lượng nước trong khoảng ba tháng mùa
lũ chiếm 75 - 85% tổng lượng nước trong năm. Cùng với đó là mùa khô kéo dài
từ 5 đến 6 tháng. Trong mùa này, lượng dòng chảy trên rất nhiều con sông chỉ
vào cỡ 15 - 20% tổng lượng dòng chảy năm.
Lượng dòng chảy trong sông, tổng hợp cả dòng chảy hình thành trong và ngoài
lãnh thổ, cũng phân bố rất không đều. Lấy theo số liệu của "Hồ sơ nguồn nước,
2002" thì suất dòng chảy năm bình quân của cả nước ta là 2,642 triệu
m3/km2.năm. Vùng Đông Bắc với diện tích bằng 65.327km2, có lượng dòng chảy
năm bằng 15,4 tỷ m3/năm, suất dòng chảy năm chỉ là 0,236 triệu m3/km2. Vùng
Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích bằng 39.706km2 có lượng dòng chảy
năm bằng 507,9 tỷ m3/năm, suất dòng chảy năm khoảng 12,79m3/km2, gấp 54 lần
suất dòng chảy của vùng Đông Bắc. Khác biệt giữa các vùng khác cũng tương
đối lớn.
Bảng II.4. So sánh suất dòng chảy năm của các vùng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Nguồn: Niên giám Thống kê và Hồ sơ nguồn nước, 2002
Trong bối cảnh chung cả nước như vậy, sự phân bố nước không đều theo không
gian và thời gian làm cho tình trạng thiếu nước về mùa khô và lũ lụt với lưu
lượng lớn, có sức tàn phá mạnh mẽ trở nên đặc biệt trầm trọng tại một số nơi. Tỷ
lệ giữa lưu lượng tối đa và lưu lượng tối thiểu của một số con sông lên tới 1.000,
thậm chí 10.000 lần.
Khó khăn thứ ba: có nhiều thiên tai gắn liền
với nước
Lũ lụt là thiên tai phổ biến nhất và ác liệt nhất
ở nước ta. Theo tài liệu ghi chép của các cơ
quan quản lý nước thì trong thế kỷ XIX, chỉ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
riêng ở Đồng bằng sông Hồng đã có khoảng 30 năm lụt rất lớn, trong đó 26 năm
vỡ đê tả ngạn sông Hồng, 18 năm đê hữu ngạn bị vỡ. Mỗi lần vỡ đê có thể gây
thiệt hại cho hàng chục vạn ha mùa màng, cuốn trôi hàng ngàn làng xóm với
hàng ngàn sinh mệnh người và gia súc, hủy hoại nhiều công trình công ích, gây
dịch bệnh trên nhiều vùng.
Trong thế kỷ XX, mặc dầu hệ thống đê điều đã được tu bổ, kiên cố hóa nhưng do
lũ lớn, đã có 23 năm có sự cố vỡ đê lớn gây tai họa và tổn thất nghiêm trọng.
Trận lũ vỡ đê năm 1971 trên Đồng bằng sông Hồng đã gây thiệt hại khoảng 7
triệu tấn thóc, số dân bị ảnh hưởng lên tới 2,71 triệu người. Lũ do bão gây ra ở
miền Trung từ năm 1992 đến năm 1999 đã làm chết 2.716 người, bị thương
1.655 người, gây thiệt hại kinh tế trên 8.000 tỷ đồng Việt Nam. Mười năm gần
đây, từ năm 1986 đến năm 2002, đã lần lượt xảy ra 30 trận lũ đặc biệt lớn trên
nhiều lưu vực sông trong cả nước.
Những trận lụt lớn này là hậu quả của những trận mưa cực lớn. Lượng mưa ngày
lớn nhất trong nhiều trường hợp lên tới 500 - 800mm. Trong một số trường hợp
đặc biệt lên tới 1.422mm/ngày (Huế), 1630mm/ngày (Truồi), 1138,5mm/ngày
(Tà Lương), 830,0mm/ngày (Can Lộc), 779,6mm/ngày (Thác Muối),
788,4mm/ngày (Đô Lương), 723,2mm/ngày (Giác Vực), 716,4mm/ngày (Trà
My), 722,0mm/ngày (Phú Thọ), 731,5mm/ngày (Đông Sơn), 758,0mm/ngày
(Ngọc Lạc), 735,0mm/ngày (Lang Chánh), 760,4mm/ngày (Bàu Nước),
767,0mm/ngày (Sơn Giang), 753,0mm/ngày (A Lưới), 721,6mm/ngày (Phú Ốc).
Bảng II.5. Một số trận lũ từ năm 1986 đến năm 2002
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Nguồn: Ngô Đình Tuấn, 2003
Hạn hán cũng là thiên tai gây tác hại hết sức lớn, trên diện rộng cho sản xuất
nông, công nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Vào mùa khô tất cả các vùng sinh
thái trên nước ta từ đồng bằng, trung du đến miền núi đều có thể bị hạn nặng.
Trong những năm gần đây ở Tây Nguyên đã liên tiếp có 6 năm bị hạn 1994,
1995, 1996, 1997, 1998 và 2003. Đặc biệt năm 1998 diện tích cây công nghiệp,
cây ăn quả bị hạn là 111.000ha, bị chết là 19.300 ha, riêng cà phê bị hạn là
74.400ha, bị chết là 13.800ha và hơn 770.000 người thiếu nước sinh hoạt.
Tại vùng Lục Khu thuộc tỉnh Cao Bằng nhân dân địa phương cho biết trong các
năm 1978, 1998 mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tận tháng 5 năm sau, nước cho
trồng trọt và chăn nuôi cạn kiệt, nước ăn uống, sinh hoạt cho nhân dân vô cùng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
khan hiếm. Nhân dân phải bỏ hết mọi việc để đi tìm nước, "cõng" nước về nhà
phục vụ ăn uống với mức tối thiểu. Nhiều hộ hàng ngày phải đi xa 4 - 8km, vượt
núi cao, đèo sâu để “cõng” nước, nhưng cũng chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu
cầu tối thiểu. Trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, hàng trăm hộ dân
vùng này đã phải rời bỏ quê hương, di dân tự do vào Tây Nguyên để kiếm sống.
Tại các đô thị, thậm chí đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế và
một số thành phố duyên hải miền Trung về mùa khô cũng có nạn thiếu gay gắt
nước ăn uống sinh hoạt cho nhân dân, cũng như nước cho sản xuất công nghiệp.
Khung II.1. THIẾU NƯỚC NGAY TẠI THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Tính đến ngày 10-6-2003 thành phố đã có thêm 5 khu vực thiếu nước sinh hoạt
nghiêm trọng so với mùa hè năm 2002. Đó là các khu vực Ngã Tư Vọng cũ,
Làng Tám, Giáp Bát (thuộc quận Hai Bà Trưng); Phương Liệt (quận Thanh
Xuân); Phương Mai, Khương Thượng, Xã Đàn, Ô Chợ Dừa và dọc đường đê La
Thành (quận Đống Đa). Nguyên nhân là do các nơi này đều nằm trong vùng ảnh
hưởng của Nhà máy nước Pháp Vân, có công suất thiết kế 30.000m3/ngày đêm,
trong khi công suất khai thác thực tế chỉ đạt 17.000m3/ngày đêm.
Nguồn: Báo Hà Nội mới, ngày 14-6-2003
Khó khăn thứ tư: chất lượng nước đang giảm sút tại nhiều nơi
Theo Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) thì tỷ lệ tiếp cận với
nước sạch của nhân dân Việt Nam đã tăng 13% trong giai đoạn 1998 - 2000. Việt
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Nam là một trong những nước có tốc độ tăng nhanh nhất về tỷ lệ này trên thế
giới. So sánh với một số nơi trên thế giới thì nước sông ngòi phần thượng lưu và
tại một số hồ lớn ở Việt Nam còn tương đối sạch. Tuy nhiên, với sự phát triển
nhanh của công nghiệp hóa, đô thị hóa, gia tăng dân số ở nông thôn cũng như
thành thị, chất lượng nước mặt cũng như nước ngầm đã có những biểu hiện suy
thoái khá nghiêm trọng.
Mức độ ô nhiễm nước ở một số khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp
tập trung đã rất lớn. Thí dụ tại Cụm Công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ
Chí Minh, ước tính mỗi ngày có khoảng hàng trăm nghìn m3 nước thải công
nghiệp từ các nhà máy giấy, hóa chất, dệt nhuộm thải ra, tuy đã có những cố
gắng khắc phục, nhưng nước kênh Tham Lương vẫn còn mầu đen, mùi hôi thối,
hàm lượng chất độc hại cao.
Ở thành phố Thái Nguyên nước thải từ các cơ sở luyện gang, thép, kim loại mầu,
sản xuất giấy, khai thác than chưa được xử lý vẫn đổ ra sông Cầu và chuyển về
vùng hạ lưu là nơi dân cư đông đúc sản xuất nông, công nghiệp phát triển. Hàng
trăm làng nghề về sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, dệt nhuộm, giấy với lượng nước
thải hàng ngàn m3/ngày không qua xử lý cũng góp phần gây ô nhiễm nguồn
nước tại nhiều địa phương ở đồng bằng và trung du.
Khung II.2. CHƯƠNG TRÌNH NƯỚC SẠCH VÀ VỆ SINH MÔI
TRƯỜNG NÔNG THÔN Ở BẠC LIÊU
Những năm gần đây, vào mùa khô người dân ở Bạc Liêu thường thiếu nước sinh
hoạt. Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước đã phát động nhân dân hưởng ứng
phong trào khoan giếng bơm tay. Tuy nhiên, hiện nay một số giếng bơm tay đã
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
bị nhiễm phèn nặng, không đảm bảo vệ sinh khi sử dụng, và nếu "nhà nhà khoan
giếng" mà không có sự quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng thì sẽ dẫn đến
tình trạng nguồn nước bị ô nhiễm. Vì vậy, trong mấy năm trở lại đây, Trung tâm
Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường nông thôn đã và đang đầu tư xây dựng các
trạm cấp nước tập trung ở các xã, thị trấn thuộc 5 huyện. Đến nay, tỷ lệ hộ dân
nông thôn đã được sử dụng nước sạch đạt 52%, tương đương 310.000 dân.
Tranh thủ từ nguồn vốn viện trợ nhân đạo của tổ chức UNICEF, hiện Bạc Liêu
đã khoan lắp được gần 4.000 giếng nước phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, do nguồn
vốn này có hạn cho nên kết quả thu được còn hạn chế, không đáp ứng nhu cầu
thiết thực phục vụ nhân dân, nhất là các hộ nghèo ở các xã vùng sâu, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
Từ năm 1998 đến nay, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và
vệ sinh môi trường, chính quyền địa phương đã thực hiện đa dạng hóa các loại
hình cấp nước. Trong đó, chú trọng ưu tiên xây dựng các hệ thống cấp nước tập
trung bằng hệ thống bơm dẫn, đưa nước đến các hộ dân ở các cụm điểm dân cư
tập trung, hạn chế khoan giếng nhỏ lẻ nhằm bảo vệ tài nguyên nước ngầm. Đến
nay có 42 hệ thống cấp nước tập trung, công suất từ 50 đến 300m3/ngày đêm đã
xây dựng và đưa vào sử dụng.
Để giúp những hộ dân nghèo ở nông thôn được sử dụng nước sạch, Uỷ ban nhân
dân tỉnh đã có chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo bằng các biện pháp rất cụ thể:
Nhà nước đầu tư vốn từ 85% đến 90%, mỗi hộ dân nghèo chỉ bỏ ra 200.000 -
300.000 đồng, chiếm 10 - 15% là có ống dẫn nước sạch kéo đến tận nhà dùng
thoải mái; giá nước sinh hoạt khoảng 1.500 - 2.200 đồng/m3.
Nguồn: Báo Nhân dân, ngày 16- 8-2003
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việt Nam môi trường và cuộc sống
Ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đô thị lớn và vừa vẫn còn tình trạng
nước thải sinh hoạt, lẫn lộn với nước thải công nghiệp không qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mt_vn_9355.pdf