Đặc điểm của hồ chứa nước

Hồ chứa nước là một loại hồ nhân tạo. Chúng

được hình thành do kết quả của việc xây dựng các

công trình thủy lợi, thủy điện, cải tạo thiên nhiên

v.v. của con người. So với lịch sử hình thành của

hồ thiên nhiên thì lịch sử của hồ chứa nước rất ngắn.

pdf8 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đặc điểm của hồ chứa nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM CỦA HỒ CHỨA NƯỚC 1- Giới thiệu chung Hồ chứa nước là một loại hồ nhân tạo. Chúng được hình thành do kết quả của việc xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện, cải tạo thiên nhiên v.v.... của con người. So với lịch sử hình thành của hồ thiên nhiên thì lịch sử của hồ chứa nước rất ngắn. Trên thế giới, hầu hết các hồ chứa nước đều được hình thành trên dưới 100 năm trở lại đây. Ở Việt Nam, các hồ chứa nước có tuổi đời cao nhất là hơn 40 năm, còn hầu hết chỉ từ 10-30 năm trở lại đây. Theo thống kê năm 1995 của Viện nghiên kinh tế và qui hoạch thủy sản - Bộ thủy sản, cả nước ta có 2.470 hồ chứa nước lớn nhỏ, với diện tích là 183.597,5 ha. Trong tương lai, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế chúng ta sẽ còn xây dựng rất nhiều hồ chứa nữa, đặc biệt là các hồ cỡ lớn. 2- Phân loại hồ chứa nước 2.1- Căn cứ vào tính chất hoặc nhiệm vụ chủ yếu của hồ Có thể chia hồ chứa nước ra thành 2 loại: - Hồ chứa nước thủy lợi. - Hồ chứa nước thủy điện. Trên thực tế có nhiều hồ chứa ngoài mục đích xây dựng chủ yếu, có thể còn kết hợp 1 hay nhiều mục đích khác nhau như phát điện, giao thông, cải tạo khí hậu, tăng lượng nước cho sinh hoạt hoặc hoạt động của các khu công nghiệp. 2.2- Căn cứ vào nguồn gốc và phương pháp hình thành Có thể chỉ ra: - Loại hồ do đắp đập ngăn chặn các eo ruộng bậc thang, ngăn các đồi núi hình thành. Loại hồ này có đặc điểm là diện tích nhỏ, độ sâu không lớn, cấu tạo đơn giản (thường có thể gọi là ao). Diện tích từ vài ba hecta đến vài chục hecta. Tuy diện tích nhỏ nhưng số lượng rất nhiều, phân bố khắp nơi nên nó có ý nghĩa rất lớn trong đời sống của người dân. Ví dụ hồ Thủy Tiên (Thiên An) - Loại hồ chứa hình thành do việc đắp đập ngăn suối mà hình thành. Loại này số lượng cũng khá nhiều và phân bố chủ yếu ở vùng trung du và ở miền núi. Tính chất chủ yếu là phục vụ thủy lợi, một số kiêm phát điện hoặc chuyên phát điện nhưng với qui mô nhỏ. - Loại đắp những suối nhỏ có diện tích từ vài chục tới vài trăm hecta. - Loại đắp những suối lớn hoặc chùm các suối có diện tích đến gần 1000 ha. Ví dụ hồ chứa Suối Hai có diện tích trung bình 750 ha và khi mực nước lên cao nhất đạt 950 ha. - Loại hồ do đắp đập ngăn các con sông nhỏ hình thành. Loại này số lượng cũng khá nhiều và chủ yếu phân bố ở miền núi hoặc hỗn hợp giữ trung du và miền núi. Tính chất chủ yếu là loại hồ thủy lợi, nhưng thường kiêm phát điện và một số mục đích kết hợp khác (như bổ sung nước cho khu công nghiệp, giảm lượng lũ cho các sông lớn ở hạ lưu, kết hợp phát triển nghề rừng, nghề cá, chăn nuôi ....). Loại này số lượng ít hơn 2 loại trên, nhưng tổng diện tích cũng tương đối lớn. Diện tích mỗi hồ biến động từ 1000 - 6000ha, trung bình từ 2000-3000ha. Lượng nước chứa trong nó từ vài triệu đến vài trăm triệu m3. - Loại hồ do đắp đập ngăn các con sông tương đối lớn hình thành. Loại này về số lượng tương đối ít và có tiếng tăm của mỗi nước. Thuộc loại này ở Việt Nam có những hồ chứa sau: Thác Bà : Do ngăn sông Chảy; diện tích mặt nước 23.400ha; dung tích 3 tỷ m3 nước và công suất phát điện 110.000KW/h. Hồ Hòa Bình: Do đắp đập ngăn sông Đà. Diện tích mặt thoáng là 19.800ha; công suất phát điện 1,5 triệu KW/h. Hồ Trị An: Ngăn sông Đồng Nai. Diện tích trung bình là 25.000ha (khi lớn nhất là 32.400ha). Hồ Dầu Tiếng: Có diện tích lúc lớn nhất là 27.000ha, thể tích khối nước là 1,4 tỷ m3. - Ngoài ra trên thế giới còn có những tài liệu ghi chép có những hồ hình thành do việc nâng cao mặt đê của một số hồ thiên nhiên nhỏ, hoặc do đào đắp nạo vét một khu đất lớn. 2.3- Căn cứ vào vị trí địa lý và địa hình vùng ngập: Có thể chia hồ chứa nước ra thành hồ chứa miền núi, trung du và vùng Tây Nguyên 2.4- Căn cứ khác: như mức độ dinh dưỡng của nước, vào năng suất nuôi cá... 3- Đặc điểm hình thái hồ chứa 3.1- Các công trình đầu mối Vấn đề đầu tiên cần chú ý đến đặc điểm hình thái của hồ chứa nước là các công trình xây dựng chủ yếu của hồ chứa nước (công trình đầu mối). Công trình đầu mối của một hồ chứa nước thủy nông thường bao gồm một đập ngăn nước (đập chính và đập phụ); cống điều tiết nước; đập tràn xả lũ và hệ thống kênh dẫn nước. Hồ chứa nước thủy lợi kiêm phát điện thì có thêm trạm thủy điện hoặc nhà máy thủy điện đặt ở phía hạ lưu của đập chính. Trong công tác chuyên môn nghề cá chúng ta cần tìm hiểu các số liệu biểu thị đặc trưng của các công trình đầu mối của hồ chứa nước như: chiều dài và cao trình đập chính; chiều dài và cao trình đập tràn; ngưỡng tràn lớn nhất; ngưỡng tràn trung bình; lưu lượng qua tràn, lưu lượng điều tiết qua cống; chiều dài kênh chính; chiều dài mương dẫn.v.v.... 3.2- Hình thái mặt nước Do phụ thuộc vào địa hình vùng ngập nên hình thái mặt nước của các hồ chứa rất không giống nhau và phức tạp hơn so với hồ thiên nhiên rất nhiều. Nhưng tựu chung chúng có 3 dạng chủ yếu sau: Hồ nhiều nhánh trông như bàn tay xòe: Phía hạ lưu gần đập thì rộng, dịch dần lên thượng nguồn thì chia ra thành nhiều nhánh dọc theo các sông, suối chảy vào hồ. Những hồ điển hình loại này như hồ Suối Hai (Hà Tây); Cấm Sơn (Hà Bắc); Dầu Tiếng (Tây Ninh).... Hồ dạng sông: Hình thành do đắp ngang dòng sông, phía trên đập hình thành hồ, dọc hai bên bờ sông là đồi núi. Nên hồ không trải rộng mà kéo dài theo lòng sông cũ. Điển hình nhất là hồ Hòa Bình (sông Đà) kéo dài 230 km; hồ Thác bà dài 80 km. Dạng hồ thiên nhiên: Được hình thành do đắp đập ở gần vị trí thung lũng rộng, hoặc đắp đập ngăn mặn hình thành. Các nhánh của hồ thường ngắn, trước đập rộng. Ở dạng này có hồ điển hình như Thác Mơ (sông Bé); Đại Lãi (Vĩnh Phú); Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh). NHẬN XÉT:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf11_9251.pdf