Đặt vấn đề : Nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn là bệnh lý thường gặp tại khoa cấp cứu nhất là trong
điều kiện Việt Nam. Tử vong do nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn vẫn còn rất cao từ 40‐50% ở các nước
phát triển và 61% ở bệnh viện Chợ Rẫy. Đặc điểm của bạch cầu, CRP, lactate máu như thế nào khi bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn vào cấp cứu?
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm bạch cầu, C reactive protein (CRP), procalcitonin (PCT), lactate máu
ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn tại thời điểm vào khoa cấp cứu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân vào khoa cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy được chẩn đoán
nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn theo tiêu chuẩn của Hiệp hội nhiễm khuẩn huyết thế giới 2001 từ 1/4/2012‐
31/7/2012 sẽ được đưa vào nghiên cứu
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 645 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đặc điểm bạch cầu, c‐ reactive protein(crp), procalcitonin, lactate máu trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết/sốc nhiễm khuẩn tại khoa cấp cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 279
ĐẶC ĐIỂM BẠCH CẦU, C‐ REACTIVE PROTEIN(CRP),
PROCALCITONIN, LACTATE MÁU TRÊN BỆNH NHÂN
NHIỄM KHUẨN HUYẾT/SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI KHOA CẤP CỨU
Tôn Thanh Trà*, Bùi Quốc Thắng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề : Nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn là bệnh lý thường gặp tại khoa cấp cứu nhất là trong
điều kiện Việt Nam. Tử vong do nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn vẫn còn rất cao từ 40‐50% ở các nước
phát triển và 61% ở bệnh viện Chợ Rẫy.. Đặc điểm của bạch cầu, CRP, lactate máu như thế nào khi bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn vào cấp cứu?
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm bạch cầu, C reactive protein (CRP), procalcitonin (PCT), lactate máu
ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn tại thời điểm vào khoa cấp cứu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân vào khoa cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy được chẩn đoán
nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn theo tiêu chuẩn của Hiệp hội nhiễm khuẩn huyết thế giới 2001 từ 1/4/2012‐
31/7/2012 sẽ được đưa vào nghiên cứu.
Phương pháp: Tiến cứu, mô tả hàng loạt ca.
Kết quả: Có 85 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu trong đó có 1 bệnh nhân không theo dõi được
kết quả, chúng tôi tiến hành mô tả 84 trường hợp còn lại. Tuổi trung bình là 55,45, tỉ lệ nam/ nữ là 1,3, trên 60
tuổi chiếm 39,3%. Cơ quan nhiễm khuẫn thường gặp nhất là đường tiêu hóa. Tỉ lệ vi khuẩn cấy mọc là 32,1%, vi
trùng thường gặp là E coli. Tỉ lệ tử vong chung là 54,8%. Bạch cầu, CRP, PCT, lactate máu đều tăng cao trong
nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn, tuy nhiên, nhóm bệnh nhân sốc nhiểm khuẩn và tử
vong có tỉ lệ PCT và lactate máu cao hơn.
Kết luận: Các chỉ số bạch cầu, CRP, Procalcitonin và lactate máu đều tăng cao ở bệnh nhân sốc nhiễm
khuẩn và nhiễm khuẩn huyết tại thời điểm vào cấp cứu. Procalcitonin máu tăng cao hơn đối với nhóm bệnh nhân
sốc nhiễm khuẩn so với nhiễm khuẩn huyết và nhóm tử vong so với nhóm sống. Lactate máu không có sự khác
biệt có nghĩa thống kê giữa nhóm nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn nhưng có sự khác biệt có nghĩa thống
kê giữa nhóm sống và nhóm tử vong.
Key words: Sốc nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết, khoa cấp cứu
ABSTRACT
FEATURES OF LEUCOCYTE, C ‐ REACTIVE PROTEIN (CRP), PROCALCITONIN, LACTATE
IN SEPSIS AND SEPTIC SHOCK AT EMERGENCY DEPARTMENT ADMISSION
Ton Thanh Tra, Bui Quoc Thang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 279 ‐ 283
Background: Sepsis and septic shock are common conditions to emergency department. The mortality is still
very high 40‐50% in developed countries and higher in developing countries. How to detect early and what
investigations should be done in emergency department? Should we do leucocyte, CRP, PCT, lactate in serum as
routine tests at emergency department?
Objectives: Describe the features of leucocyte, CRP, Procalcitonin and lactate in sepsis and septic shock
patients to emergency department.
* Khoa Cấp cứu, bệnh viện Chợ Rẫy **Bộ môn Hồi sức‐ cấp cứu‐ Chống độc, Đại học y dược TP HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Tôn Thanh Trà ĐT: 0903673451 Email: tonthanhtra@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 280
Method and participants: Prospective, case series.
Result : 85 patients were enrolled, 1 excluded, the average age was 55.45, male to female 1.3/1, The age older
than 60 was 39.3%, positive culture was 32.1% with E. coli was the most common cause. The mortality was
54.8%. Leucocyte, CRP, PCT and lactate were higher than normal ranges. PCT in sepsis 12.6ng/dl, in septic
shock 16 ng/dl, in died group 17.9 ng/ dl in survival group 13.28 and Lactate in sepsis 50.4 mg/dl, septic shock 49
mg/dl, in survival group 28.1 mg/dl and died group 68.2 mg/dl.
Conclusion : Leucocyte, CRP, procalcitonin, lactate are higher than normal in sepsis and septic shock
patients. The PCT is higher in septic shock to sepsis and the death group to survival group. The lactate is not
significant difference in sepsis and septic shock but significant difference in survival group and death group.
Key words: Sepsis, septic shock, emergency department.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn là
bệnh lý thường gặp tại khoa cấp cứu. Tỉ lệ tử
vong trong nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm
khuẩn rất cao từ 40‐50% ở các nước phát triển
như Mỹ(9) và cao hơn ở các nước đang phát triển
như ở Việt Nam. Theo nghiên cứu của tác giả
Phạm Thị Ngọc Thảo năm 2013 tại Bệnh viện
Chợ Rẫy, tỉ lệ tử vong là 61% ở bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết nặng(8). Việc phát hiện sớm, điều trị
kháng sinh kịp thời, thực hiện các thủ thuật hồi
sức tích cực có tác dụng cải thiện tỉ lệ sống còn.
Ngoài các xét nghiệm thường qui cần thực hiện
tại cấp cứu, có cần thực hiện các xét nghiệm
CRP, Proalcitonin, lactate máu tại thời điểm cấp
cứu hay không và vai trò của nó như thế nào
trong điều trị và theo dõi.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả đặc điểm của Bạch cầu, CRP, PCT và
lactate máu tại thời điểm vào khoa cấp cứu ở
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm
khuẩn .
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiến cứu, mô tả hàng loạt ca.
Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn
huyết, sốc nhiễm khuẩn nhập khoa Cấp cứu
bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/4/2012 ‐ 31/7/2013.
Qui trình nghiên cứu: Bệnh nhân vào khoa
cấp cứu trong thời gian nghiên cứu có đủ tiêu
chuẩn lựa chọn sẽ được đưa vào nghiên cứu.
Tiến hành khai thác bệnh sử, khám lâm sàng,
thực hiện các xét nghiệm thường qui đồng thời
xét nghiệm CRP, PCT và lactate máu. Bệnh nhân
sẽ được thực hiện cấy máu, kháng sinh đồ, sử
dụng kháng sinh theo kinh nghiệm, đặt đường
truyền tĩnh mạch trung tâm và thực hiện liệu
pháp hướng đến đạt đích sớm theo hướng dẫn
của SSC 2008. Sau đó được nhập vào các khoa
lâm sàng và được theo dõi kết quả cuối cùng
dựa vào hồ sơ lưu trữ.
KẾT QUẢ
Có 85 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu,
trong đó có 1 bệnh nhân không theo dõi được
kết quả cuối cùng, chúng tôi tổng hợp số liệu của
84 trường hợp còn lại như sau:
Đặc điểm dịch tể học, cơ quan tổn thương
và tác nhân gây bệnh
Tuổi trung bình 55,45 tuổi, thấp nhất là 17,
cao nhất là 95, tập trung nhiều nhất ở lứa tuổi
>60 chiếm 39,3%.
Bảng 1:Phân bố theo nhóm tuổi như sau
Tuổi Số lượng Tỉ lệ %
17-20 3 3.6
21-40 19 22.6
41-60 29 34.5
>60 33 39.3
Tổng 84 100
Tình trạng bệnh nhân khi vào viện
49/84 (57%) bệnh nhân vào cấp cứu trong
tình trạng sốc cần phải hồi sức ngay lập tức, có
27 trường hợp đã được sử dụng vận mạch ở
tuyến trước, không có trường hợp nào được đặt
catheter tĩnh mạch trung tâm.
Tỉ lệ có sử dụng các biện pháp cấp cứu ở
tuyến trước là 71/84 (84,5%). Trong 71 bệnh nhân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 281
do tuyến trước chuyển đến có 28/71(39,4%) bệnh
nhân trong tình trạng sốc, chưa được hồi sức
đúng mức trên đường chuyển viện.
Bảng 2: Tình trạng bệnh nhân khi vào cấp cứu
Bệnh nhân Số lượng Tỉ lệ
Tự đến 13 15,5
Tuyến trước chuyển đến: sốc 28 33,3
Tuyến trước chuyển đến: ổn
định huyết động 43 51,2
Tổng 84 100
Như vậy, số bệnh nhân tự đến hoặc đến cấp
cứu trong tình trạng sốc cần phải được hồi sức
tích cực ngay lập tức còn khá cao mặc dù bệnh
nhiễm khuẩn huyết hay sốc nhiễm khuẩn là rất
nặng.
Tiêu điểm nhiễm trùng
Hai cơ quan thường gặp nhất là đường tiêu
hóa và đường hô hấp chiếm 54% trong tổng số
bệnh nhân nghiên cứu.
Bảng 3: Tiêu điểm nhiễm khuẩn
Tiêu điểm nhiễm trùng Số lượng Tỉ lệ %
Tiêu hóa 29 34,5
Hô hấp 25 29,8
Đường mật 10 11,9
Mô mềm 10 11,9
Không rõ 5 5,9
Đường tiết niệu 4 4, 7
Màng não 1 1.1
Tổng 84 100
Bệnh lý kèm theo
33 bệnh nhân (39,3%) có bệnh lý kèm theo
trong đó thường gặp là đái tháo đường (9),
ung thư (7), xơ gan (4), suy thận mạn (3), suy
tim (2), bệnh lý huyết học (1), tự miễn (1),
nhiễm HIV (1).
Tỉ lệ cấy mọc vi trùng
Là 27/84 chiếm 32,1%
Bảng 4: Các trường hợp cấy, phân lập được vi trùng
Bệnh phẩm Số lượng Tỉ lệ %
Máu 12 44
Mủ 8 30
Đàm 5 18
Dịch não tủy 1 4
Dịch ổ bụng 1 4
Tổng 27 100
Bảng 5: Tên vi khuẩn
Tên vi khuẩn Số lượng Tỉ lệ %
E. Coli 11 41
Acinetobacter 10 37
Pseudomonas 3 11
Klebsiella 2 7
Streptococcus 1 4
Tổng 27 100
Tỉ lệ tử vong chung là 46/84 (54,8%)
Bảng 6: Kết quả bạch cầu, CRP, PCT, lactate máu
Xét nghiệm Trung bình NKH Sốc Sống Tử vong
Bạch cầu / ml 17320 13060 19930 17630 16950
CRP mg/l 121,3 130,8 114,4 150 134,4
Procalcitonin
(ng/ml)
14.65 12,6 16 13,28 17,9
Lactate
(mmol/l)
49.6 50.4 49 28,1 68,2
Bảng 7: So sánh PCT và lactate máu giữa nhóm
NKH và SNK
Biến Nhiễm khuẩn
huyết
Sốc nhiễm
khuẩn
P
PCT 12,6 16 <0,01
Lactate 49,6 50,4 0,085
Bảng 8: So sánh PCT và lactate máu giữa nhóm sống
và nhóm tử vong
Biến Sống Tử vong P
PCT 13,28 17,9 <0,01
Lactate 28,1 68,2 <0,01
BÀN LUẬN
Nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn là
một bệnh lý nặng, tỉ lệ tử vong vẫn còn khá cao
kể cả ở những nước phát triển. Tỉ lệ này khoảng
40‐50% ở Mỹ và khoảng 60‐70% ở các nước đang
phát triển(11). Mặc dù có nhiều tiến bộ trong điều
trị, kháng sinh, liệu pháp hướng đến đạt đích
sớm nhưng việc cải thiện tỉ lệ tử vong ở nhóm
bệnh nhân này vẫn còn hạn chế. Tỉ lệ tử vong
chung trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi là
54,8% cũng tương tự với tác giả Phạm Thị Ngọc
Thảo 61% trên 109 bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết nặng hoặc các nghiên cứu khác ở các nước
đang phát triển. Phần lớn các bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn vào cấp cứu
trong tình trạng nặng và đã được sử dụng kháng
sinh từ tuyến trước nên tỉ lệ cấy mọc vi trùng chỉ
đạt 32,1% và vi trùng chủ yếu vẫn là E coli đề
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 282
kháng với nhiều loại kháng sinh. Cơ quan
thường gặp vẫn là đường tiêu hóa. Ngoài ra, tỉ lệ
có các bệnh lý kèm theo rất cao và tập trung ở
nhóm tuổi lớn hơn 60 chiếm 39,3% là những
thách thức cho quá trình điều trị(3)
Với những dữ liệu về vi khuẩn và tiêu điểm
nhiễm khuẩn trong nghiên cứu của chúng tôi thì
việc sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm ban
đầu tại cấp cứu cần tập trung vào nhóm vi
khuẩn Gram âm và áp dụng liệu pháp xuống
thang hợp l ý. Kết quả này cũng phù hợp với
hướng dẫn của SSC 2012 về việc lựa chọn kháng
sinh ban đầu tập trung vào vi khuẩn Gram âm
đường ruột. Theo khuyến cáo của SSC 2012, cần
phồi hợp các loại kháng sinh phổ rộng trong 3‐5
ngày sau đó đánh giá lại và sử dụng liệu pháp
xuống thang. Thời gian sử dụng kháng sinh kéo
dài từ 7‐10 ngày ngoại trừ các trường hợp tác
nhân là tụ cầu vàng hoặc trên cơ địa suy giảm
miễn dịch hoặc giảm bạch cầu hạt. Do đặc
điểm bệnh viện Chợ Rẫy là tuyến cuối nên
nhận các bệnh nhân đã được điều trị kháng
sinh từ tuyến trước vì vậy, tỉ lệ vi trùng cấy
mọc không cao và thường đề kháng với các
kháng sinh thông thường.
Liệu pháp hướng đến đạt đích sớm được áp
dụng ngay tại thời điểm bệnh nhân vào cấp cứu
đã cải thiện được tỉ lệ tử vong, thời gian nằm
viện, chi phí cũng như thời gian phải nằm hồi
sức(7). Trong các tiêu chí này thì lactate máu là
một thông số cần đạt được và để theo dõi đáp
ứng điều trị.
Bạch cầu là một xét nghiệm thường qui cho
các bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm
khuẩn vì đó là kết quả có chung trong công thức
máu để xác định cả hồng cầu và tiểu cầu. CRP là
protein C phản ứng tăng cao trong các phản ứng
nhiễm khuẩn nhưng không đặc hiệu và thường
ít có giá trị trong theo dõi và tiên lượng(4). Trong
nhóm nghiên cứu của chúng tôi, CRP tăng cao ở
những bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết, sốc
nhiễm khuẩn nhưng không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa nhóm nhiễm khuẩn huyết
và sốc nhiễm khuẩn, giữa nhóm sống và nhóm
tử vong và trong các tiêu chuẩn chẩn đoán
nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn của
Châu Âu hoặc Quốc tế không sử dụng CRP để
chẩn đoán hoặc theo dõi đáp ứng điều trị, vì vậy,
xét nghiệm này không cần thiết phải thực hiện
một cách thường qui khi bệnh nhân vào cấp cứu.
Procalcitonin là tiền chất của hormon
calcitonin được bài tiết bởi tế bào C của tuyến
giáp. Procalcitonin bình thường trong huyết
thanh <0,1 ng/ ml và tăng trong bệnh cảnh
nhiễm khuẩn nhất là bệnh cảnh nhiễm khuẩn
nặng. Thời gian bán hủy của procalcitonin là 24
giờ vì vậy được xem là một dấu chỉ điểm theo
dõi đáp ứng điều trị. Nghiên cứu của Savibri và
cộng sự cho thấy trong các bệnh cảnh nhiễm
khuẩn nặng, PCT tăng sau 4 giờ đầu, đạt đỉnh
sau 8‐24 giờ và giảm xuống nhanh trong 24 giờ
nếu bệnh nhân đáp ứng với liệu pháp điều trị(10).
Vì vậy, PCT được xem là xét nghiệm giúp chẩn
đoán, theo dõi điều trị và góp phần quyết định
việc thay đổi hoặc ngưng kháng sinh điều trị(5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ PCT
tăng cao trong cả 4 nhóm, trung bình là 14,65
ng/ml chứng tỏ phần lớn bệnh nhân có tình
trạng nhiễm khuẩn nặng và đến bệnh viện Chợ
Rẫy khá muộn hoặc không đáp ứng với điều trị
ban đầu ở tuyến trước. Điều đó góp phần lý giải
tỉ lệ tử vong trong nhóm nghiên cứu của chúng
tôi cao 54,8%. Nồng độ PCT có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa nhóm nhiễm khuẩn huyết
và sốc nhiễm khuẩn, giữa nhóm sống và nhóm
tử vong. Điều đó chứng tỏ PCT góp phần đánh
giá mức độ nặng cũng như tiên lượng sống còn
ở bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm
khuẩn. Ngoài ra, nghiên cứu của Azevedo và
cộng sự năm 2012 cho thấy độ thanh thải
procalcitonin trong 24 giờ đầu là một yếu tố tiên
lượng sống còn độc lập ở bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết nặng và sốc nhiễm khuẩn(2). Chính
vì lẽ đó, procalcitonin là một xét nghiệm cần
thực hiện ngay tại thời điểm bệnh nhân vào
khoa cấp cứu để giúp đánh giá mức độ nặng và
theo dõi đáp ứng điều trị ở bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 283
Lactate là sản phẩm của quá trình chuyển
hóa kỵ khí khi tế bào thiếu oxy vì vậy, nồng độ
lactate máu phản ảnh tình trạng giảm tưới máu
mô(6). Theo hướng dẫn của SSC 2012 khi nồng độ
lactate máu >4 mmol/l được xem như bệnh nhân
đang ở trong tình trạng sốc và phải được đưa
liệu pháp hướng đền đạt đích sớm vào điều trị
cho dù huyết áp vẫn còn trong giới hạn bình
thường(7). Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi,
nồng độ lactate cao, trung bình 49,6 mmol/l một
lần nữa chứng tỏ bệnh nhân vào cấp cứu trong
tình trạng rất nặng. Bên cạnh đó, do chúng tôi
không đưa tiêu chí lactate máu >4 mmol/l được
xem là sốc nhiễm khuẩn nên nồng độ lactate
máu giữa hai nhóm nhiễm khuẩn huyết và sốc
nhiễm khuẩn không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê. Việc tăng nồng độ lactate máu thể hiện
mức độ nặng của bệnh còn việc thải trừ nồng độ
lactate máu (lactate clearance) phản ánh đáp ứng
điều trị. Trong hướng dẫn của SSC 2012 thì mục
tiêu trong 6 giờ đầu là Lactate clearance (+) khi
đạt được >10%(11). Vì vậy việc xét nghiệm lactate
máu ngay thời điểm bệnh nhân vào cấp cứu
giúp xác định chẩn đoán, đánh giá mức độ nặng
và làm nền tảng để theo dõi đáp ứng và tiên
lượng bệnh nhân. Trong điều kiện thực tiễn của
chúng ta, khi mà bệnh nhân phải lưu lại tại cấp
cứu trong nhiều giờ do sự quá tải thường xuyên
của các khoa lâm sàng thì lactate máu cần phải
được thực hiện nhiều lần hơn nếu bệnh nhân
còn lưu lại tại cấp cứu hơn 6 giờ để đánh giá đáp
ứng với trị liệu ban đầu.
KẾT LUẬN
Các chỉ số bạch cầu, CRP, Procalcitonin và
lactate máu đều tăng cao ở bệnh nhân sốc
nhiễm khuẩn và nhiễm khuẩn huyết tại thời
điểm vào cấp cứu. Procalcitonin máu tăng cao
hơn đối với nhóm bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn
so với nhiễm khuẩn huyết và nhóm tử vong so
với nhóm sống. Lactate máu không có sự khác
biệt có nghĩa thống kê giữa nhóm nhiễm
khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn nhưng có sự
khác biệt có nghĩa thống kê giữa nhóm sống và
nhóm tử vong. Điều này chứng tỏ lactate máu
và procalcitonin tại thời điểm vào cấp cứu là
những yếu tố góp phần tiên lượng sống còn ở
những bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết và sốc
nhiễm khuẩn.
KIẾN NGHỊ
Ngoài các xét nghiện thường qui thực hiện
tại cấp cứu, procalcitonin và lactate máu là hai
xét nghiệm cần thực hiện ở bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn để góp phần
chẩn đoán, theo dõi diễn tiến và tiên lượng bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Azevedo JR, Torres OJ, Czecko NG (2012), ʺProcalcitonin as
a prognostic biomarker of sepsis and septic shockʺ. Rev Col
Bras cir 39(6), 455‐461.
2. Bracht B, Hanggi M, Leker B (2007), ʺIncidence of low
central venous oxygen saturation during unplanned
admission in multidiscriplinary intensive care unit ‐ An
observational studyʺ. Critical care 2, 331‐337.
3. Dellinger PR, Levy MM, Rhodes A (2013), ʺSurviving Sepsis
Campaign: International Guidelines for Management of
Severe Sepsis and Septic Shock: 2012ʺ. Critical Care Medicine,
41(2), 580‐637.
4. Jimene A J, Ryes M J P D L, Diaz R O (2009), ʺUtility of
procalcitonin and C reactive protein in the septic patient in
the emergency department, Emergencias 2009, 21, 23‐27ʺ.
emergencias, 21, 23‐27.
5. Kiba S, Adam K, Bartin G (2011), ʺDiagnostic and prognostic
biomarker of sepsis in critical careʺ. Critical care medicine
66(3), 33‐40.
6. Levy MM, Fink MP, Marshall JC (2003),
ʺSCCM/ESICM/ACCP/ATS/SIS International Sepsis
Definitions Cʺ. Crit Care Med 31(4): 1250 – 1256.
7. Marik PE (2013), ʺSurviving sepsis: going beyond the
guidelinesʺ. Marik Annals of Intensive Care 1(17).
8. Marty P, Roquilly A, Vallée F (2013), ʺLactate clearance as
death predictor in severe sepsis and septic shock during the
first 24 hours in ICU. An observational study ʺ. Annals of
Intensive Care, 3(3).
9. Phạm Thị Ngọc Thảo (2013), ʺNghiên cứu lâm sàng, cận lâm
sàng và giá trị tiên lượng của một số cytokin trên bệnh nhân
nhiễm khuẩn huyết nặngʺ. Luận án tiến sĩ y học chuyên ngành
Hồi sức‐Cấp cứu, Đại học y dược TP Hồ Chí Minh.
10. Phua J, Koay E S C, Lee K H (2008), ʺLactate, procalcitonin
and amino‐terminal pro‐B‐ Type natriuretic versus cytokine
measurements and clinical severity scores for
prognostication in septic shockʺ. shock 29(3), 328‐333.
11. Schmit GA, Mandel J (2013), ʺSevere septic shock
management ʺ. Up to date, Sep.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 279_747.pdf