Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ XIX

Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, song song với việc thiết lập

chế độ thực dân tại những nơi vừa chiếm được, ban chỉ huy quân Pháp ở Sài

gòn nghĩ ngay đến việc hoạt động ở Bắc kỳ.

Về phía triều đình Huế thì từ sau khi Pháp chiếm lục tỉnh, đã không có một

biện pháp nào để chấn chỉnh kinh tế, củng cố quốc phòng nhằm đưa đất nước

ra khỏi tình trạng hiểm nghèo. Trái lại vẫn thi hành những chính sách thiển

cận khiến cho đất nước càng ngày càng lún sâu vào khủng hoảng, bế tắc.

Công cuộc phòng thủ đất nước không được chăm lo. Trình độ tổ chức, trang

bị, kĩ thuật tác chiến của quân đội không được cải tiến. Nông nghiệp đình

đốn, công thương nghiệp bị kìm hãm ngặt nghèo. Tài chính thiếu hụt nghiêm

trọng. Thiên tai xảy ra thường xuyên: năm 1867, đê vỡ ở các tỉnh Sơn tây, Hà

nội, Bắc ninh, Hưng Yên, Nam Định. Vùng ven biển Bắc kì cũng bị bão lụt

to. Năm 1868 đến lượt các tỉnh Ninh bình, Hải Dương bị bão lụt, nhân dân

xiêu tán tứ tung. Tháng 5-1870 Quảng Bình, Quảng Trị hết đại hạn đến lụt

lớn

pdf37 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tại Huế, giữa Ô-ba-rê và Phan Thanh Giản đã có một cuộc điều đình trên cơ sở bản đề án mà Ô-ba- rê đã trình Na-pô-lê-ông III. Một thỏa ước về vấn này với 21 điều khoản đã được thảo ra, trong đó Pháp đồng ý trả lại triều đình 3 tỉnh miền Đông Nam kì và đảo Côn lôn, nhưng lại làm chủ Sài Gòn và một số địa điểm quan trọng khác cả về kinh tế, chính trị, quân sự. Riêng khoản 4 thì ghi rõ triều đình Tự Đức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp trên cả 6 tỉnh Nam kì. Như vậy theo thoả thuận này thực dân Pháp gần như giữ nguyên hiệp ước 1862, chúng lại còn giành thêm một khoản tiền chuộc khá lớn để bù vào ngân sách đang thiếu hụt. Còn về phía triều đình, rõ ràng phải chịu những điều khoản nặng nề hơn nhưng lại thoả mãn được tâm lí ”chuộc lại” được đất quê ngoại Tự Đức, tránh được tiếng xấu là bất hiếu với vua chúa tổ tiên.Tuy nhiên, ý muốn cá nhân trên đây của Tự Đức đã không thực hiện được. Ngay sau khi Ô-ba-rê rời khỏi Việt Nam, cánh thực dân hiếu chiến ở Pháp, nhất là cánh thực dân ở Nam Kì đã kiên quyết phản đối đề án của ông ta. Chúng hiểu quá rõ sự bạc nhược của triều đình phong kiến Việt nam. Rốt cuộc, hiệp ước mới giữa Ô-ba-rê và Phan Thanh Giản ngày 26 tháng 1 năm 1864 đã không Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn được chính phủ Pháp phê chuẩn. Ngược lại, ngay sau khi cho quân chiếm Căm-Pu-Chia vào năm 1863, chúng bắt đầu mở rộng cuộc chiến tranh để thanh toán nốt ba tỉnh miền Tây Nam kỳ của Việt nam. Lúc đầu, lấy lý do ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên ở vào ”địa thế treo lơ lửng, không tiện cho nước Nam” vậy ”xin để cho Pháp cai trị tất cả”.. Nhưng sau vì lo đất của triều đình Huế có thể gây ra đổ bể cho âm mưu ăn cướp của Pháp, bọn võ quan thực dân bèn quyết định mở cuộc tấn công bằng vũ lực chiếm 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên từ ngày 18 đến 24/6/1867. Ngày 18-6-1867 quân Pháp gồm 1200 tên cùng 400 ngụy binh tập hợp ở Mĩ Tho. Ngày 19-6 La-gơ-răng-đi-e cũng đưa thêm 16 tàu chiến đến nơi. Sáng 20-6, chúng dàn trận trước thành Vĩnh Long rồi đưa thư cho khâm sai đại thần của triều đình Huế là Phan Thanh Giản đòi nộp thành không điều kiện. Tiếp đó quân Pháp lại buộc Phan viết thư khuyên quan quân triều đình ở hai tỉnh còn lại là An giang và Hà tiên hạ khí giới. Như thế là chỉ trong vòng mấy ngày, thực dân Pháp đã chiếm đóng được cả ba tỉnh miền Tây Nam kì không tốn một viên đạn. Ngày 5/7/1867, sau khi nộp thành và viết thư khuyên hàng, Phan Thanh Giản đã uống thuốc độc tự tử. Còn La-gơ-răng-đi-e, đã được Pa- ri cử làm tổng chỉ huy quân đội Pháp ở ba tỉnh miền Tây (ngày 24/6/1867). Mặc dù phải chiến đấu trong một tình thế khó khăn gấp bội, nhân dân 6 tỉnh nam kỳ vẫn kiên cường chống Pháp, làm thất bại ý đồ bình định cấp tốc của chúng. Tại những vùng dọc theo sông Cửu long, hàng chục ngàn người đã gia nhập nghĩa quân. Nhiều nhà nho yêu nước ở các tỉnh Vĩnh, An Hà đã nhất quyết không chịu hợp tác với giặc, tị địa ra Bình Thuận, lập ra tổ chức Đồng châu xã để nương tựa lẫn nhau và lập căn cứ Tính linh để mưu tiếp tục chống giặc. Số đông sĩ phu khác đã ở lại tham gia phong trào kháng chiến của nhân dân. Năm 1867, Phan Tôn, Phan Liêm (còn gọi là Phan Tam, Phan Ngũ), hai người con của Phan Thanh Giản, hoạt động kháng Pháp ở vùng Trà Vinh, Bến Tre, Vĩnh long. Tại miền cực tây lục tỉnh, phát huy truyền thống Nhật Tảo năm xưa, Nguyễn Trung Trực tiếp tục nổi dậy. Tháng 9/1868 ông bị giặc bắt ở Phú Quốc rồi bị đem về xử tử tại Rạch Giá. Trước khi chết, nhà yêu nước đã dõng dạc nói với Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn kẻ thù: ”Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây” Sau khi Nguyễn Trung Trực bị giết hại, những nghĩa quân ủng hộ ông đã tiếp tục cùng anh em Đỗ Thừa Long, Đỗ Thừa Tự lập căn cứ kháng Pháp ở vùng rừng U Minh. Tại An Giang có khởi nghĩa của Trần Văn Thành. Vùng Ba Tri (Bến tre) có khởi nghĩa của Phan Tôn... Ngoài ra trong những năm từ 1869 đến 1875 còn có nhiều cuộc khởi nghĩa khác. Ở Ô Môn - Bình Thủy (Cần Thơ) có khởi nghĩa của Lê Công Thành, ở Vĩnh long, Long xuyên có khởi nghĩa của Phan Văn Đồng.... Năm 1875, Nguyễn Hữu Huân một lần nữa lại đứng dậy ở Tân An, Mĩ Tho. Tháng 5/1875 ông bị Pháp bắt và xử tử hình tại xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo tỉnh Tiền Giang. IV. Việt Nam trước khi thực dân Pháp tiến đánh Bắc kỳ lần thứ nhất. Pháp ráo riết chuẩn bị cuộc xâm lược. 4.1. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam trước khi Pháp kéo ra Bắc kỳ. Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, song song với việc thiết lập chế độ thực dân tại những nơi vừa chiếm được, ban chỉ huy quân Pháp ở Sài gòn nghĩ ngay đến việc hoạt động ở Bắc kỳ. Về phía triều đình Huế thì từ sau khi Pháp chiếm lục tỉnh, đã không có một biện pháp nào để chấn chỉnh kinh tế, củng cố quốc phòng nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng hiểm nghèo. Trái lại vẫn thi hành những chính sách thiển cận khiến cho đất nước càng ngày càng lún sâu vào khủng hoảng, bế tắc. Công cuộc phòng thủ đất nước không được chăm lo. Trình độ tổ chức, trang bị, kĩ thuật tác chiến của quân đội không được cải tiến. Nông nghiệp đình đốn, công thương nghiệp bị kìm hãm ngặt nghèo. Tài chính thiếu hụt nghiêm trọng. Thiên tai xảy ra thường xuyên: năm 1867, đê vỡ ở các tỉnh Sơn tây, Hà nội, Bắc ninh, Hưng Yên, Nam Định. Vùng ven biển Bắc kì cũng bị bão lụt to. Năm 1868 đến lượt các tỉnh Ninh bình, Hải Dương bị bão lụt, nhân dân xiêu tán tứ tung. Tháng 5-1870 Quảng Bình, Quảng Trị hết đại hạn đến lụt lớn. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn Công thương nghiệp đã kém cỏi nay lại càng đình đốn. Những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa xuất hiện ở nước ta trong các thế kỉ trước đã bị nhà nước phong kiến Nguyễn chặn đứng. Về thương nghiệp, những đột phá bước đầu của Vương triều Tây Sơn vào chính sách bế quan toả cảng truyền thống đã bị xoá bỏ hẳn. Các trung tâm thương mại của các thế kỉ trước dần dần chỉ còn lại trong kí ức mọi người. Giao thông đường biển hoàn toàn ỷ lại, trông chờ vào Chiêu thương cục nhà Thanh. Việc buôn bán giao thiệp với nước ngoài coi như bị đóng của hoàn hoàn. Trong điều kiện quốc tế mới ở nửa sau thế kỉ XIX một số nước châu Âu đã đến giao thiệp và xin thông thương như Anh, Tây-ban-nha, Phổ... nhưng triều đình Tự Đức thiển cận, đã tìm mọi cách từ chối. Trong khi thiên tai, thuế má, tạp dịch, đói khổ, cướp bóc đang xô đẩy cuộc sống của nhân dân đến bước đường cùng thì bọn phong kiến quý tộc vẫn sống sa hoa phung phí. Công trình Khiêm lăng của Tự Đức đã ngốn không biết bao nhiêu tiền bạc và sức lực của nhân dân. Ách áp bức nặng nề đã khiến cho các cuộc khởi nghĩa chống triều đình tiếp tục bùng nổ ngày càng dữ dội: Năm 1866 có cuộc khởi nghĩa ở kinh thành. Tiếp đó là các cuộc nổi dậy của nông dân Đan Phượng (Hà Đông), nông dân Kim Anh, Đa Phúc (Phúc Yên), nông dân Bắc Ninh, Quảng Yên. Nạn thổ phỉ, hải phỉ, ”giặc khách” như giặc cờ đen (Lưu Vĩnh Phúc), cờ trắng (Bàn văn Nhị, Lương Văn Lợi), cờ vàng (Hoàng Sùng Anh, Vương Thiên Tích, Ngô Anh), cùng những đám ”tàu ô”, cướp biển thừa dịp suy yếu bất lực của triều đình đã mặc sức tung hoành quấy nhiễu ở các vùng thượng du, trung du và ven biển Bắc kì, làm cho nhân dân càng thêm điêu đứng. 4.2. Trào lưu đòi cải cách và thái độ của triều đình Huế Trước tình cảnh tiêu điều của đất nước, nhiều sĩ phu yêu nước có tầm nhìn xa, hiểu biết rộng như Đinh Văn Điền, Nguyễn Lộ Trạch, đặc biệt là Nguyễn Trường Tộ đã mạnh dạn đưa ra những đề nghị cải cách, những mong có thể cải biến tình hình, nhưng tất cả đều bị triều đình Tự Đức cự tuyệt. Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là con ông Nguyễn Quốc Thư ở làng Bùi Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn Chu, tổng Hải Đô, huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Năm 1847, khi Tộ 19 tuổi, cũng là lúc thực dân Pháp đe doạ xâm lược Đà nẵng, ông bắt đầu từ bỏ con đường nho học và theo con đường âu học, do một giáo sĩ Pháp âm thầm truyền bá tại Chủng viện Xã đoài. Một thời kì, Tộ xin dạy chữ Hán ở nhà thờ Tân Ấp rồi ông đi du lịch Hồng-Kông, Sinh-ga-po.Năm 1858, Nguyễn Trường Tộ sang Pháp lưu học ở Pa-ri trong 2 năm, quyết chí khảo cứu những thành tựu của cuộc cách mạng kĩ thuật châu Âu và nhanh chóng trở thành một nhà khoa học có tài. Năm 1861 ông trở về Tổ quốc rồi 8 năm sau đó, năm 1871 mất tại quê nhà, thọ 43 tuổi. Với tấm lòng yêu nước, yêu dân tha thiết, Nguyễn Trường Tộ muốn đem tất cả trí tuệ và sức lực của mình vào việc canh tân xứ sở. Tháng 3 năm 1863 Nguyễn Trường Tộ nhờ Phạm Phú Thứ gửi lên triều đình Huế một bản trần tình và ba tập điều trần. Hệ thống sáng kiến duy tân đất nước của ông bắt đầu từ đó. Điểm xuất phát trong toàn bộ các đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ là lòng yêu nước,tinh thần độc lập và niềm tin vào vận mệnh dân tộc. Trong các bản điều trần, ông cực lực lên án những kẻ mưu phản quê hương đất nước, hứng khởi cảm quan về địa lợi tốt và Nhân vật tốt, về cách làm cho hoạ trở thành phúc, bại chuyển thành thắng, phát triển trí tuệ dân tộc để đưa nước ta thoát ra khỏi tình thế ”bốn mặt chịu ép” và nguy cơ bị nước ngoài xâm lăng. Những tư tưởng trên đây của Nguyễn Trường Tộ được gắn liền với một cơ sở lí luận đối lập với ý thức hệ phong kiến truyền thống, những ”nho phong” và ”học thuật” cũ kĩ. Cũng trên cơ sở của những xuất phát điểm trên đây, ông đưa ra hàng loạt sáng kiến duy tân, bao gồm nhiều lĩnh vực, từ kinh tế đến chính trị, quân sự, văn hoá, giáo dục, ngoại giao... tất cả đều nhằm vào mục đích: ”hiến mưu hiến sức phấn đấu phòng ngừa để mà giữ nước, giữ nhà”. Về kinh tế, Nguyễn Trường Tộ đề cập đến các mặt công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, thuế khoá, đê điều... cho đến cách thức giao dịch kinh tế, kí hợp đồng với nước ngoài. Ông vạch rõ những tiềm năng của đại công nghiệp nước ta, về 4 nguồn: hải lợi, lâm lợi, thổ lợi, khoáng lợi. Ông đặc biệt nhấn mạnh: để khai thác được những tiềm năng đó, đặc biệt phải chú ý giải quyết việc thiếu tài nghệ, tức là nhân tài kĩ thuật, đến vấn đè khai thác mỏ. Ông tình nguyện làm việc thăm dò các mỏ, lập bản đồ khoáng chất nước ta và cũng là người đầu tiên phát hiện nguồn than đá ở Quảng Yên, chứ không phải là kĩ sư Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn Phay-sơ (Pháp) năm 1882. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Nguyễn Trường Tộ cho rằng, tuy triều đình trọng nông, nhưng thực tế lại không hề có khoa học nông nghiệp, kĩ thuật canh tác rất lạc hậu. Ông đề nghị thành lập Bộ nông chính để chăm sóc nông nghiệp, mở trường nông chính để phổ biến khoa học kĩ thuật nông nghiệp, nghiên cứu nghề nông và nâng cao trình độ canh tác ở nước ta. Một điểm rất đặc sắc là ông đã đề xuất việc trị thuỷ sông Hồng. Ông phản đối chủ trương phá bỏ hệ thống đê sông Hồng của Tự Đức và đưa ra sáng kiến khoa học, sử dụng tổng hợp nguồn nước chống thủy tai theo nguyên lí ”khơi nước chứ không cản nước” mà đến nay vẫn còn có nhiều giá trị. Trên các lĩnh vực ngoại giao, quốc phòng, văn hoá giáo dục... Nguyễn Trường Tộ cũng mạnh dạn đề xuất những chủ trương cải cách, trong đó luôn luôn đề cao tinh thần tự lực tự cường, “lĩnh hội thời biến”, lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước phương tây để tìm cách chống ”ngoại địch” chứ không chỉ bó hẹp ngoại giao một cách không bình đẳng với Pháp. Nguyễn Trường Tộ tỏ ra là người hết sức tâm huyết và suất sắc trong việc đề nghị đường lối cải tổ về giáo dục. Ông công kích nền giáo dục khô cứng, khuôn sáo của nho học cũ; nêu ra những sáng kiến cải tổ học chế nước ta, trong đó, hết sức coi trọng lối học thực dụng, khuyến khích học tiếng nước ngoài, đề cao Quốc âm (tiếng Việt). Về chính trị, xã hội, ông cũng đưa ra nhiều ý kiến nhưng đã có những hạn chế lịch sử không thể vượt qua được. Hệ thống các đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cũng như những bản điều trần đề nghị cải cách của Đinh văn Điền, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Huy Tế... có nhiều điểm tiến bộ và cũng không phải là không có cách gì để thực hiện, nhưng rất tiếc nó đã không được triều đình Huế quan tâm, tiếng vang ra ngoài xã hội của các đề nghị đó, vì thế cũng bị hạn chế. Mặt khác, những đề nghị cải cách này lại đưa ra vào lúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đang ngày càng mở rộng, đang thu hút sự chú ý của toàn xã hội, cho nên nó đã bị rơi vào quên lãng, dù là cố ý hay không cố ý. Trong lúc đó, để gỡ tình thế rối ren, Tự Đức đã điều động các tướng lĩnh chủ chốt của chiến trường lục tỉnh ra Bắc để đối phó. Triều đình Huế còn thu nạp Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn thêm tướng cờ đen Lưu Vĩnh Phúc, thậm chí nhờ ”Soái phủ” Pháp ở Sài gòn đem tàu ra giúp tiễu trừ hải phỉ ở ven biển Bắc Kì. 4.3.Pháp tiến đánh thành Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873-1874) Trong khi đang muốn tìm đường thông thương với miền Hoa Nam (Trung quốc) - một miền đất đông dân cư, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nằm sâu trong lục địa, cách xa vùng ảnh hưởng của người Anh, lại cũng biết một cách chắc chắn rằng con đường sông Hồng rất thuận tiện cho việc đi lại lên vùng Vân Nam (Trung Hoa), thực dân Pháp đã quyết định đánh chiếm lấy Bắc Việt Nam và coi đó là ”một vấn đề sống chết cho tương lai quyền thống trị của Pháp ở Viễn Đông”. Để xúc tiến âm mưu này, năm 1872, sau khi thám thính vịnh Hạ Long, sử dụng đồng đảng Tạ Văn Phụng để gây sức ép với triều đình Huế, thực dân Pháp đã dùng tên lái buôn J.Duy-Puy gây rối trên sông Hồng, tự tiện xâm phạm chủ quyền của Việt nam. Năm 1872 - 1873 Đuy-Puy liên tiếp gây ra những vụ khiêu khích thậm chí cướp phá ở Hà nội. Sau đó lấy cớ giải quyết vụ Duy-Puy ngày 11-10-1873 Fhơ-răng-xi Gác-ni-ê được lệnh từ Sài gòn đem quân ra Bắc. Sau khi tự tiện tuyên bố mở cửa sông Hồng, F.Gác-ni-ê quyết định đánh thành Hà Nội. Fhơ-răng-xi Gác-ni-ê hạ thành Hà Nội lần thứ nhất. Ngày 20/11/1873 Đại tướng Nguyễn Tri Phương - lúc đó được cử giữ chức Trấn thủ thành Hà Nội, đã cùng Hiệp quân Trần Văn Cát, suất đội Ngô Triều xông lên mặt thành chỉ huy tác chiến. Phan Tôn, Phan Liêm những lãnh tụ nghĩa quân miền Tây lục tỉnh năm xưa đã anh dũng chiến đấu cho đến khi bị giặc bắt. Một viên chưởng cơ cùng 100 quân chống chọi đến người cuối cùng ở ô Thanh Hà (về sau đổi thành ô Quan Chưởng). Nguyễn Tri Phương bị trọng thương ở bụng, không chịu để giặc buộc thuốc, nhịn ăn, nhịn uống cho đến chết. Trong vòng 3 tuần lễ, giặc Pháp đánh lan ra các tỉnh Bắc kỳ, chiếm các tỉnh: Hưng yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình Nhân dân các địa Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn phương nói trên đã phối hợp với quan lại, sĩ phu tự đứng lên tổ chức chống giặc, ở Hải Dương có Lê Hữu Thường, tuần phủ Đặng Xuân Bảng, bố chính Nguyễn Hữu Chính, án sát Nguyễn Đại. ở Nam Định, văn thân chia nhau trấn giữ các huyện: Nguyễn Mậu Kiến tập hợp nghĩa binh, xây dựng trung tâm kháng chiến ở Trực Định (nay là Kiến Xương). Phạm Văn Nghị, Nguyễn Hữu Lợi... chống Pháp ở Phong Doanh, Ý Yên. Tại Bắc Ninh, Sơn Tây, hai cánh quân của Trương Quang Đản, Hoàng Kế Viêm đã phối hợp với toán quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc tạo thành thế bao vây uy hiếp thành Hà nội. Ngày 21/12/1873 tại Cầu Giấy, quân ta tổ chức mai phục tiêu diệt toán quân Pháp, trong đó có tên tổng chỉ huy F.Gác-ni-ê, đồng thời ở các nơi, quân dân ta ráo riết bao vây Nam Định, Hải Dương, Ninh Bình. Hiệp ước 1874 Quân Pháp hoang mang dao động. Cuộc kháng chiến kiên cường anh dũng của nhân dân ta đã đặt thắng lợi giải phóng đất nước trong tầm tay. Giữa lúc đó triều đình Huế ký điều ước 15/3/1874 mang tên Hiệp ước Hòa bình và liên minh (còn gọi là điều ước Giáp Tuất). Điều ước gây nên sự bất bình và phẫn uất trong dân chúng. Nhiều cuộc nổi dậy chống triều đình kết hợp với chống thực dân Pháp đã bùng nổ, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn - Đặng Như Mai ở Nghệ Tĩnh (1874): Dập dìu trống đánh cờ xiêu Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây. Hiệp ước Giáp Tuất là điều ước thứ hai, đánh dấu bước trượt dài trên đường suy vong của triều đình Huế. Nó gồm 22 khoản. Những khoản chính là: triều đình chính thức thừa nhận việc quân Pháp chiếm cứ 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, thừa nhận cho người Pháp được tự do truyền đạo ở khắp nước ta và được tự do thông thương, đặc biệt là ở Hà nội và trên sông Hồng. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn V. Quân Pháp đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ hai (1882-1884) Âm mưu của Pháp sau Hiệp ước 1874 và cuộc tấn công Hà Nội lần thứ hai của Pháp. Việc cắt đất đầu hàng của triều đình Huế vẫn chưa làm vừa lòng quân Pháp. Để cứu vãn những vùng còn lại, một mặt triều đình Tự Đức tiếp tục lao sâu vào con đường phản bội, cùng quân Pháp đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân, mặt khác, tìm cách cầu cứu nhà Thanh. Lợi dụng việc triều đình Huế vẫn nhờ tàu Pháp từ Sài gòn ra dẹp bọn cướp biển ở vùng biển Hạ Long, Quảng Yên rồi lấy cớ triều đình Huế không nghiêm chỉnh thi hành Hiệp ước 1874, vẫn tiếp tục quan hệ với Trung Hoa, ngăn trở việc đi lại buôn bán của người Pháp trên sông Hồng... bọn thực dân sau khi do thám tình hình đã quyết định tăng quân số ở miền Bắc rồi gửi thêm quân viễn chinh từ Pháp sang. Tháng 3/1882 thống đốc Nam Kì lại phái Trung tá hải quân Ri-vi-e đem 300 quân ra Bắc đổ bộ lên Hà Nội nâng tổng số quân của chúng ở đây lên 600 tên. Ngày 25/4/1882 Ri-vi-e nổ súng đánh thành Hà Nội. Tổng đốc Hoàng Diệu đốc quân kháng chiến anh dũng. Nối tiếp tinh thần bất khuất của Nguyễn Tri Phương năm xưa quân ta dựa vào các thành lũy, chiến hào đẩy lui từng đợt tiến công của địch. Nhưng cuộc cầm cự chỉ kéo dài được hơn nửa ngày. Sức đề kháng của quan ta yếu dần, cuối cùng tổng đốc Hoàng Diệu đã phải tuẫn tiết sau khi lấy máu viết tờ di biểu gửi triều đình. Ngay từ giữa năm 1882, biết âm mưu Pháp sắp thanh toán hết Việt Nam triều đình Mãn Thanh đã hạ lệnh cho tập trung quân ở miền biên giới và đưa một bộ phận sang đóng ở Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Sơn tây. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn Nhưng khi thành Hà nội thất thủ chúng vẫn án binh bất động. Vì giữa nhà Thanh và Pháp đang có cuộc thương lượng tại Bắc Kinh, chúng gắng đi đến một hiệp nghị (cuối 1882) để định vị trí chia nhau thống trị Bắc Việt nam. Trước thái độ bạc nhược của triều đình Huế và thái độ dè dặt của triều đình Mãn Thanh, thực dân Pháp càng củng cố quyết tâm đánh chiếm bằng được phần thị trường Bắc Việt Nam, vừa để khai thác tài nguyên, vừa để thâm nhập vào vùng Tây Nam Trung Hoa. Từ tháng 2/1883 chính phủ Pháp gấp rút chuẩn bị hành động. Chúng tăng quân ở bắc Việt Nam lên 2000 tên năm 1883 và 15000 tên đầu năm 1884. Việt nam, hỗ trợ về tinh thần cho triều Nguyễn và cũng là để lợi dụng cuộc kháng chiến của nhân dân Việt nam mà mặc cả với Pháp.Trong lúc đó, cũng như trước kia, Pháp và Mãn Thanh lại tiếp tục thương lượng ở Pa-ri và Thượng Hải. Lập trường của nhà Thanh là thừa nhận cho Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kì nhưng đòi Pháp phải thừa nhận quyền Thiên triều của Bắc Kinh đối với Huế. Quân dân Hà Nội kháng chiến. Trận Cầu Giấy lần thứ hai 19/5/1883 Ngày 19/5/1883 Hăng-ri Ri-vi-e bị quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích, tử trận ở Cầu Giấy. Tin này khiến Chính phủ Pháp quyết định khai chiến để buộc triều đình Việt Nam đầu hàng hoàn toàn. Hác-măng là lãnh sự Pháp ở Băng-Cốc được cử làm ủy viên toàn quyền điều khiển cuộc chinh phục. Giữa lúc nguy kịch như vậy thì ngày 19/7/1883 Tự Đức chết. Pháp tấn công Thuận An. Nhà nước phong kiến Việt Nam sụp đổ. Hòa ước 1883 và 1884 Triều đình đang còn lục đục trong việc suy tôn người kế nghiệp thì thực dân Pháp đã đưa quân chiếm Thuận An (20/8/1883) rồi ngày 25/8/1883 chúng buộc triều đình Nguyễn ký ”Hiệp ước Hòa bình” - một hiệp ước được Pháp Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn soạn thảo sẵn với tinh thần nô dịch, đặt nền thống trị của chúng tên toàn bộ đất nước Việt nam. Hiệp ước 25/8/1883 (còn gọi là Hiệp ước Hác-măng) gồm 27 khoản. Nội dung qui định triều đình Huế thừa nhận Nam kỳ là thuộc địa của Pháp, phần còn lại đặt dưới chế độ ”Bảo hộ”. Đất nước Việt nam từ đây bị chia thành 3 khúc: Co Sanh Sin (Nam kỳ), An Nam: từ Khánh Hòa tới Đèo Ngang và Tông canh: từ Đèo ngang ra Bắc Hiệp ước Hác măng tước bỏ hoàn toàn quyền ngoại giao của triều đình Huế, kể cả với Bắc Kinh - tức là thủ tiêu ý đồ của Mãn Thanh dùng Huế để mặc cả với Pháp. Ngày 11/5/1884 - tại Thiên Tân, Mãn Thanh ký một qui ước với Pháp, theo đó, Trung Quốc nhận rút quân khỏi Bắc kỳ và tôn trọng các hiệp ước đã ký kết giữa Pháp và triều đình Huế. Ngày 6/6/1884 Pháp soạn thảo một hiệp ước mới sai Pa-tơ-nốt đưa cho triều đình Huế ký nhận. Nội dung sửa lại mấy khoản của hòa ước Hác măng, để các tỉnh Bình thuận, Hà tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa đều thuộc Trung kỳ, về danh nghĩa do triều đình cai quản nhưng dưới sự bảo hộ của Pháp. Để yên tâm thống trị Việt nam, ngày 9/6//1885, tại Thiên Tân, Pháp ký với Trung Quốc một bản hiệp ước mang tên ”Hòa bình hữu nghị và thương mại”. Bản hiệp ước này có 10 khoản, theo đó Pháp rút khỏi Đài Loan còn Trung Quốc thừa nhận nền thống trị của Pháp tại Việt Nam. Sau đó, Trung quốc còn nhượng cho Pháp một số quyền lợi trên lãnh thổ Trung Quốc còn Pháp cũng nhượng cho Trung Quốc nhiều vùng đất của Việt Nam tại vùng biên giới, sáp nhập các vùng đất này vào 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung quốc. Ngày 26/6/1887 và 20/6/1895 - Pháp - Trung Quốc ký 2 công ước hoạch định biên giới Việt - Trung. Đường biên giới trên biển cũng được chúng thỏa thuận trong công ước ngày 26/6/1887./. Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcuoc_khang_chien_chong_phap_xam_luoc_cua_nhan_dan_ta_nua_cuoi_the_ky_xix_3033.pdf