1. Tổng quát.
2. Sự phát triển của công nghệ tua-bin điện gió.
3. Sơ lược về kỹ thuật.
6.Chuẩnmựcsosánhtrongđầutưtrangtrạiđiệngió.
4. Thất thóat cơ năng.
10. Thử nghiệm điện gió với những công nghệ khác.
8. Trang trại điện gío lắp đặt trên biển.
7. Cánh đồng điện gío lắp đặt trên đất liền.
9. Tích trữ năng lượng từ gió.
200 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Công nghiệp điện gió, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình Cánh đồng điện gío nên có đường đến từ bến cảng,
cảng phải chiụ được trọng lượng cao của phần tua-bin.
Kể cả những dự án đang tiến hành thủ tục xin đầu tư tính đến nay
thì tổng số dự án điện gió hiện nay tại Việt Nam là 50.
Rất nhiều nơi tại Việt Nam có tiềm năng gío cao nhưng ở vùng sâu
vùng xa, khả năng vận chuyển đến nơi đó không thể thực hiện được
vì những cây cầu đôi khi chỉ chịu được trọng tải 5 tấn và chiều rộng
của cầu dưới 4 mét.
Nói chung là công trình xây dựng Cánh đồng điện gío phải phù hợp
với những yêu cầu kỹ thuật, hạ tầng cơ sở và có tính kinh tế, tính xã
hội khả thi.
Đường dây dẫn điện nằm ở độ cao thấp; việc vận chuyển qua sông
đôi khi không thực hiện được vì đáy sông không đủ sâu, sà lan
không vào được; đường vận chuyển có trọng tải thấp; nền đất có
độ cứng yếu, đặc biệt là tại những vùng ven biển miền Nam.
Vận chuyển thiết bị đến địa điểm xây dựng.
Vận chuyển cánh quạt bằng xe tải.
Vận chuyển đọan thân trụ bằng xe tải.
Dựng trụ tua-bin điện gió trên đất liền.
Sơ đồ tiến hành dựng trụ và khu vực lắp đặt tua-bin điện gió
cho hệ thống cánh quạt có đường kính 100 mét.
Qui trình lắp đặt từng trụ
tua-bin theo kế họach.
Xe xích cẩu phục vụ nâng
hệ thống cánh Rotor.
12. Ảnh hưởng đến môi trường.
Cánh đồng điện gió sử dụng nguồn năng lượng từ gió để tạo ra điện
năng, là năng lượng tái tạo và thuộc loại điện sạch vì không phát
thải khí nhà kính, không làm thay đổi khí hậu toàn cầu, không tạo ra
chất gây ô nhiễm môi trường, không cần bất kỳ một lọai nhiên liệu
nào, không gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, nuôi trồng và sinh sống của con
người và những động vật khác.
Tuy nhiên để bảo vệ môi trường, bảo vệ sinh thái, cảnh quan, bảo vệ
sự sinh sống của tất cả mọi động vật, bảo vệ hoạt động và nhu cầu
con người, những công trình điện gió phải chấp hành những qui
định cơ bản như khoảng cách tối thiểu từ tua-bin điện gió đến khu
dân cư, bảo đảm cảnh quan không bị thay đổi quá nhiều, độ ồn phát
sinh khi hoạt động phải nằm trong giới hạn qui định và hạn chế
được những ảnh hưởng khác như hiện tượng nhấp nháy lúc hoạt
động dưới ánh nắng mặt trời hoặc gây nguy hại cho các loài chim,
dơi hoặc động vật khác.
Hiện nay khoảng cách từ nơi lắp đặt tua-bin điện gió đến khu dân cư và những địa
điểm được bảo vệ chưa được tiêu chuẩn hóa. Tuy nhiên một số nơi trên thế giới có
qui định riêng theo vùng, thí dụ như Qui định về khoảng cách tua-bin điện gió của
Tiểu bang Schleswig Holstein – CHLB Đức.
Vùng Khoảng cách tua-
bin có chiều cao
h < 100 m
Khoảng cách tua-
bin có chiều cao
h ≥ 100 m
Nơi dân cư thưa, ít nhà 300 m 3,5 x h
Nơi dân cư trung bình 500 m 5 x h
Thị xã, nơi có nhà nghỉ, cắm trại 1000 m 10 x h
Đường cao tốc, đường liên tỉnh, liên
xã
50-100 m 1 x h
Vùng bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ
sinh thái, bảo vệ di tích, rừng quốc
gia hoặc tương tự
Ít nhất 200 m
Trường hợp đặc
biệt 500 m
Ít nhất 200 m
4 x h
Rừng 200 m 200 m
Sông, hồ Ít nhất 50 m Ít nhất 50 m
1 x h
Cũng như tất cả những máy móc hoặc thiết bị cơ, điện, tua-bin
điện gió khi hoạt động sẽ phát sinh một độ ồn nhất định. Độ ồn
này do sự chuyển động của những hệ thống cơ trong tua-bin điện
gió và dòng gió tác động vào cánh quạt. Tùy theo công nghệ, nhà
sản xuất và công suất mà độ ồn phát sinh của tua-bin điện gió khác
nhau. Như đã trình bày ở phần trên, tua-bin điện gió trục ngang hai
cánh có độ ồn rất cao nên chỉ được lắp đặt ngoài khơi xa tầm nhìn
thông thường. Tua-bin điện gió ba cánh sử dụng hộp số có độ ồn
cao hơn tua-bin sử dụng máy phát điện nam châm vĩnh cửu không
dùng hộp số.
Ảnh hưởng của tiếng ồn.
Độ ồn phát sinh ngoài yếu tố thiết kế và sản xuất còn lệ thuộc vào
mật độ của không khí, tốc độ gió và độ cao của hệ thống cánh
quạt. Độ ồn thông thường tại tâm hệ thống cánh của tua-bin điện
gió có công suất từ 2 đến 3 MW ở khoảng 98 đến 109 dB(A).
Tốc độ gío Độ ồn
4 m/s 94,4 dB (A)
5 m/s 99,4 dB (A)
6 m/s 102,5 dB (A)
7 m/s 103,6 dB (A)
8 m/s 104,0 dB (A)
Thí dụ như độ ồn phát sinh của tua-bin điện gió Vestas V90-
1.8/2.0 MW ở mật độ không khí 1.225 kg/m³ và độ cao tâm cánh
quạt 80 m theo những tốc độ gió khác nhau là những trị số trong
bảng dưới:
Tác động tiếng ồn giảm theo khoảng cách. Ở khoảng cách 200 mét
tính từ tâm hệ thống cánh quạt sẽ là 49 dB(A). Trị số độ ồn này
tương tự tiếng ồn nơi văn phòng làm việc thông thường.
Cánh đồng điện gió thường được xây dựng tại những nơi xa khu dân
cư hoặc ven bờ hoặc ngoài khơi. Tuy nhiên những công trình này
cũng ảnh hưởng một phần đến cảnh quan và địa hình nên phải phù
hợp những qui định của từng nơi và đặc biệt phải giữ đúng khoảng
cách qui định đến những địa điểm như vùng bảo vệ thiên nhiên, bảo
vệ sinh thái, bảo vệ di tích, rừng quốc gia, rừng phòng hộ hoặc khu
dân cư. Ngòai tua-bin điện gió, ảnh hưởng đến cảnh quan cần phải
tính đến hệ thống lưới điện và những đường dây cáp điện lắp đặt.
Hệ thống cánh quạt của những tua-bin điện gió có lớp sơn hoặc
nhựa bảo vệ bóng khi họat động dưới tia nắng mặt trời sẽ gây ra
hiện tượng phản chiếu ánh sáng. Vì thế những tua-bin điện gío hiện
nay thường có lớp sơn hoặc nhựa bảo vệ mờ (matt) không phản
chiếu. Hiện tượng này chỉ còn với một số nhỏ những tua-bin điện
gió thế hệ cũ.
Ảnh hưởng đến cảnh quan và địa hình.
Ảnh hưởng do phản chiếu (disco effect).
Tùy theo vị trí và độ lớn của tua-bin điện gió, khi có ánh sáng mặt
trời và tua-bin điện gió họat động sẽ gây ra hiện tượng nhấp nháy vì
ánh sáng mặt trời bị cánh qụat ngăn cách tạo ra những vùng sáng và
tối không đều nên gây ra cảm nhận khó chịu. Tuy nhiên, tác động
này chỉ có ảnh hưởng trong một phạm vi nhỏ dưới chân tua-bin điện
gió.
Tua-bin điện gió lắp đặt ngoài khơi có nhiều ưu điểm như tiềm
năng gió đều và cao, diện tích mặt biển rộng và không ảnh hưởng
đến cảnh quan, tiếng ồn nên trong thập niên vừa qua đã được xây
dựng nhiều tại một số nước như Anh quốc, Đan Mạch, Đức, Thụy
Điển và một số nước khác tại châu Âu.
Ảnh hưởng đến sinh thái biển.
Vì sự phát triển này, ảnh hưởng của những Trang trại điện gió đến
sinh thái biển cũng được nhiều viện nghiên cứu thực hiện nhưng
cho đến nay vẫn chưa có một tiêu chuẩn hoặc yêu cầu chung.
Ảnh hưởng nhấp nháy (flicker - interfering shadows).
Theo báo cáo của Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên Nature and
Biodiversity Conservation Union - NABU - CHLB Đức năm 2005
phân tích và đánh giá 127 tài liệu thống kê từ các nước đã lắp đặt
những Cánh đồng điện gió lớn như Anh quốc, Đan Mạch, Đức, Mỹ,
Tây Ban Nha và những nước khác thì tỉ lệ chim và các loại động vật
bị tai nạn do chạm vào đường dây tải điện hoặc xe chạy trên đường
trên thế giới là khỏang 5 triệu mỗi năm nhưng tai nạn do va chạm
vào tua-bin điện gió hầu như không đáng kể.
Thí dụ như thống kê từ 140 Cánh đồng điện gió với 4.083 trụ tua-
bin điện gió tại miền bắc Tây Ban Nha từ năm 2000 đến năm 2006
thì số vịt trời chết do bay vào cánh quạt là 732 và đó là một tỉ lệ rất
thấp so với những tai nạn khác.
Ảnh hưởng đến các loài chim và động vật.
Những nghiên cứu và thống kê này xác định là dù ngày hoặc đêm,
chim hoặc vịt trời bay qua nơi đặt tua-bin điện gió đều nhận thức
được đó là những vật cản và hầu hết đều đổi hướng bay hoặc bay
cao hơn đỉnh của cánh Rotor với một khoảng cách an toàn, ngòai
ra sau một thời gian ngắn chim hoặc những động vật khác sẽ quen
và thích nghi nhanh.
Cũng theo những nghiên cứu trên về các lòai chim di chuyển từ
nơi này đến nơi khác hàng năm thì những tua-bin điện gió được
lắp đặt không ảnh hưởng đến chúng.
Đối với lòai dơi, dơi là động vật cần bảo vệ nghiêm ngặt nên một
số viện nghiên cứu như tại CHLB Đức, Mỹ, Úc thực hiện thống
kê về tai nạn do dơi va chạm vào tua-bin điện gió.
Những thống kê này xác định số tai nạn dơi do tua-bin điện gió
rất thấp và hầu như không đáng kể, thí dụ như trong năm 2005,
13 dơi bị tai nạn tại CHLB Đức và xảy ra trong thời gian giơi
sinh sản từ tháng 8 đến tháng 9, đặc biệt là tai nạn này không do
sự va chạm của dơi vào tua-bin điện gió mà là do cơ thể dơi bị
chấn động vì áp suất (Barotrauma) do đầu cánh quạt gây ra.
Cánh đồng điện gió và đàn chim.
Tua-bin điện gió có lớp sơn bảo vệ mờ không bị phản chiếu ánh
sáng nhưng vẫn bị nhiễu (interference) do phản chiếu sóng điện từ
(electromagnetic waves) của sóng phát thanh truyền hình và truyền
thanh không dây cũng như sóng của mạng thông tin di động và chủ
yếu là những hệ thống analog.
Tuy nhiên sự can nhiễu này rất thấp và không đáng kể, đặc biệt là
đối với cánh quạt của những tua-bin điện gió hiện đại được thiết
kế bằng vật liệu gần như không tác động vào sóng vô tuyến.
Ảnh hưởng đến sóng vô tuyến.
Nếu so với những tòa nhà cao tầng thì ảnh hưởng phản chiếu của
sóng điện nhẹ hơn rất nhiều và có thể nói là không. Mặc dù thế tua-
bin điện gió cũng không nên lắp đặt trong phạm vi phát sóng chuẩn
(radio links).
Tua-bin điện gió có thể được cho là nguyên nhân gây trở ngại cho
đường hàng không, đặc biệt là gây can nhiễu đến hệ thống thông
tin lưu động hàng không.
Tuy nhiên dù Cánh đồng điện gió được xây dựng tại bất kỳ nơi
nào, mỗi trụ tua-bin điện gió lắp đặt phải có đèn tín hiệu luôn
luôn họat động hòan chỉnh, vì thế những ánh đèn tín hiệu này có
thể gây ra cảm giác khó chịu khi khoảng cách nhất định đến khu
dân cư ít hơn 300 mét.
Ảnh hưởng đến đường hàng không.
Thông thường trong bán kính khỏang 10 km tính từ trung tâm
của sân bay, việc xây dựng Cánh đồng điện gió phải có sự đồng
ý của cơ quan quản lý hàng không.
Tua-bin điện gió được coi là nguyên nhân gây trở ngại cho những
hệ thống radar. Khi Cánh đồng điện gió gồm nhiều tua-bin điện gió
lắp đặt gần nhau sẽ có nhiều bóng râm từ thân trụ và có thể gây ảnh
hưởng đến tầm quan sát xa (Operating range) của radar do luồng
sóng của radar bị xáo động và chỉ ổn định lại sau một khỏang cách
từ 300 đến 400 mét.
Khi cánh quạt tua-bin điện gió quay, sóng dội của radar
(radar echo signal) sẽ bị ảnh hưởng về giới hạn thời gian
(time limit) và có thể phát tín hiệu không chính xác.
Ảnh hưởng đến hệ thống radar.
Vì thế tua-bin điện gió không được lắp đặt tại những địa điểm gần
gần hệ thống radar, đặc biệt là radar bảo vệ an toàn bàu trời hoặc
radar phục vụ thông tin lưu động hàng không.
Tua-bin điện gió được lắp đặt tại những nơi xa sự họat động của
con người nên ngoài tai nạn có thể xảy ra với nguời lao động làm
việc trong thùng Nacelle hoặc trong Cánh đồng điện gió không ảnh
hưởng đến sức khỏe của con người.
Thế nhưng cánh đồng điện gió có thể là những nơi tham quan thú vị
nên một số ảnh hưởng dù nhỏ vẫn có thể xảy ra vẫn phải đề cập đến
như khả năng cánh quạt bị gẫy, khả năng những hạt nước đông
thành đá tại cánh quạt rơi xuống tại vùng ôn đới hoặc sự nguy hại
trong việc khai thác chất Neodym (Nd), hợp chất Neodymium-Iron-
Bor (NdFeB) của đất hiếm trong máy phát điện hoặc dầu trong hộp
số.
Ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Khi tua-bin điện gió họat động, cánh quạt có thể bị gẫy do những
nguyên nhân như bị sét đánh trực tiếp vào thân cánh, hoặc khi do
lỗi thiết kế thiếu chính xác về dung sai độ cong của cánh quạt và
vật liệu kém chất lượng, hoặc khi cánh quạt họat động ở tốc độ gió
cao bị cong đụng vào thân trụ, hoặc do độ bền mỏi của vật liệu
cánh quạt không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, hoặc khi cánh quạt
quay mất thăng bằng và tần số rung của hệ thống cánh quạt và trụ
bị cộng hưởng.
Trong thập niên vừa qua những nguyên nhân này đã được hầu hết
những nhà sản xuất tua-bin điện gió khắc phục, cải tiến và gần như
đã được lọai bỏ.
Khả năng cánh quạt bị gẫy.
Cánh đồng điện gió xây dựng tại vùng ôn đới hoặc những nơi mà
mùa đông có nhiệt độ xuống thấp, nước trong không khí tụ lại thân
cánh, thùng Nacelle đông thành băng đá và văng xuống gây tai
nạn cho con người và những động vật khác.
Tùy theo độ cao của tua-bin điện gió, tốc độ gió và tốc độ số vòng
quay cũng như vị trí hạt băng đá bám vào thân cánh quạt, những
hạt băng đá này văng xa đến 100 mét và có thể gây ra tai nạn, đặc
biệt là những quạt điện gió lắp đặt ven đường hoặc không giữ
đúng qui định về khỏang cách.
Khả năng nước đông thành đá và văng xuống gây tai nạn.
Tua-bin điện gió sử dụng máy phát điện nam châm vĩnh cửu được
chế tạo với chất Neodym (Nd) từ hợp chất Neodymium-Iron-Bor
(NdFeB) của đất hiếm. Theo như phân tích của Đài truyền hình
ARD - CHLB Đức (ARD Magazin Panorama) và tài liệu của cơ
quan Thông tấn Ideja - Agency for communication - Basel - Thụy
Sĩ năm 2011 thì việc khai thác, tách chất Neodym (Nd) từ quặng
đất hiếm để lại nhiều phần rác nguy hiểm đến sức khỏe con người
như chất Uran và Thorium.
Những chất phóng xạ này có thể đi vào mạch nước nguồn ảnh
hưởng đến hệ sinh thái, hệ thực vật và đặc biệt là sức khỏe của
người lao động và dân cư tại những địa điểm khai thác sẽ bị nguy
hại nghiêm trọng. Chính vì những yếu tố này mà hiện nay một số
viện nghiên cứu trên thế giới về lãnh vực điện gió đang thử
nghiệm để tìm ra một vật liệu khác thay thế cho chất Neodym.
Vật liệu có thể gây nguy hại cho sức khỏe con người.
12. Tua-bin điện gió và kinh phí đầu tư.
Vốn đầu tư tua-bin điện gió hiện nay có nhiều khác biệt. Theo một báo
cáo chính tức (Official Press Release) của Tuần báo kinh tế CHLB Đức
Wirtschaftswoche tháng 01 năm 2011 thì Cánh đồng điện gió West Wind
tại Wellington - Tân Tây Lan thì giá thành một Kilowatt điện chỉ khỏang
từ 4 đến 4,5 Euro-Cent trong khi giá thành của 1 Kilowatt điện của nhà
máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch là 6 Euro-Cent.
Cũng theo báo cáo này thì tại một Cánh đồng điện gió lắp đặt tua-bin
Enercon E-82, lọai 2MW năm 2010, kinh phí cho công suất mỗi
KiloWatt là 1786 Euro, trong khi giá thành của mỗi Kilowatt của Cánh
đồng điện gió Königsfeld tại CHLB Đức chỉ khoảng 1100 Euro và kinh
phí trung bình trên thế giới trong năm 2011 là dưới 1000 Euro cho mỗi
Kilowatt.
Kinh phí cho tua-bin điện gió tại Việt Nam có nhiều khác biệt do việc
vận chuyển, do chi phí thêm cho hạ tầng cơ sở, lưới điện, đường và đặc
biệt là những chi phí phụ quá cao.
Việc phân tích vốn đầu tư của từng tua-bin điện gió vì thế cũng phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, theo Báo cáo của Giáo sư tiến sĩ kỹ sư Dr.-Ing.
Jochen Twele tại Bern - Thụy Sĩ vào năm 2006 thì kinh phí riêng cho
tua-bin điện gió lắp đặt trên đất liền kể cả vận chuyển và lắp đặt là
khoảng 77,1 %, tỉ lệ phần trăm còn lại là chân đế, kinh phí nối điện, tư
vấn và những kinh phí phụ khác.
Tỉ lệ phần trăm kinh phí của tua-bin điện gió trên đất liền.
Cũng theo tài liệu của tác giả và Giáo sư tiến sĩ kỹ sư Dr.-Ing. Robert Gash
CHLB Đức năm 2011 thì kinh phí xây dựng trang trại điện gió trên biển có tỉ lệ
khác vì việc đặt dây cáp dẫn điện vào đất liền và xây dựng chân đế trên nền biển
tốn kém hơn trên đất liền và cũng tùy theo độ sâu của nền biển, khoảng cách mà
tỉ lệ này có thể thay đổi như bảng dưới:
Đề mục Tỉ lệ %
Tua-bin điện gió, kể cả máy biến thế và hệ thống
điều khiển
33-50% - (tùy theo dự án)
Trụ 5%
Chân đế 15-18% (trụ Tripod)
Móng trên nền biển 2-6%
Lắp ráp trên biển 5-7%
Dây cáp trung thế trong trang trại điện gió 2%
Dây cáp cao thế dẫn đến đất liền 2-20% (tùy khỏang cách)
Hệ thống đổi tần trên biển 4-10%
Nối cáp với lưới điện trên đất liền 4-10%
Kế họach, kiểm tra xây dựng, lắp đặt 4-7%
Chi phí phục vụ tài chánh 3-6%
Theo những tính toán về vốn đầu tư và khả năng hoàn vốn, trong
công nghiệp điện gió, thời gian hoàn vốn lệ thuộc vào sự hỗ trợ giá
điện của từng nước. Tại những nước phát triển có giá điện được hỗ
trợ cao từ phía Nhà nước, thời gian hoàn vốn tương đối nhanh.
Đối với điện nguyên tử, kinh phí đầu tư tương tự như kinh phí đầu
tư điện gió nhưng hệ số công suất cao và việc hoàn vốn cũng nhanh
hơn. Thế nhưng nguy cơ tiềm ẩn của điện nguyên tử chỉ có thể xác
định được một phần nhỏ qua những biến cố đã xảy ra trên thế giới.
Kinh phí đầu tư cho Cánh đồng điện gió hiện nay cao và thời gian
hoàn vốn thường lâu hơn những công trình nhiệt điện sử dụng
nhiên liệu hóa thạch hoặc thủy điện.
Khi van lò điện nguyên tử bị hở sẽ gây ra cháy nổ và phát sinh
những chất phóng xạ Casium, Plutonium và Jod lan truyền vào môi
trường không khí.
Trong nông nghiệp, chất phóng xạ từ những cơn mưa nhiễm vào
cây lúa, ngũ cốc, trái cây, rau củ.
Chất Jod 131 tụ lại ở đường hô hấp của con người, gây ra ung thư
đường thở. Chất Casium 137 tồn tại trong thời gian khoảng 30
năm và hấp thụ vào thức ăn, nước uống rồi sau đó đọng lại ở cơ
bắp và hệ thần kinh gây ra ung thư, rối loạn hệ truyền giống.
Trong chăn nuôi, chất phóng xạ thấm vào thức ăn động vật,
truyền đến sữa, trứng, thịt.
Ngoài biển khơi, những cơn mưa có chất phóng xạ sẽ thấm vào hệ
sinh thái biển, thấm vào rong rêu, nhiễm vào các loài tôm cá, hải
sản cũng như những sinh vật khác sống trong biển và nguy hiểm
hơn nữa là những nguy cơ này vẫn tồn tại rất lâu cả khi lò nguyên
tử không còn họat động.
Từ những cơn mưa phóng xạ, quá trình thấm thấu của mặt đất có
thể giảm bớt mức nguy hại nhưng việc nhiễm chất phóng xạ vào
mặt đất, sông hồ và nguồn nước ngầm cũng không thể trong một
thời gian ngắn mà tự thiêu hủy được.
Chính đáng hơn, với tinh thần trách nhiệm đối với xã hội, với môi
trường hiện tại và thế hệ tương lai, những dự án gây ô nhiễm môi
trường, ảnh hưởng đến hệ sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe của con người, những dự án này phải cải tạo lại môi trường
sống và có kinh phí bồi thường những mất mát nghiêm trọng
về vật chất, tài sản và quan trọng hơn nữa là tính mạng con
người.
Chính vì những lý do trên mà những lọai năng lượng sạch như
điện từ ánh nắng mặt trời, điện gió, địa nhiệt, điện từ sóng biển,
khí sinh học hoặc tương tự được mọi người trong xã hội quan
tâm và mong muốn một ngày nào đó môi trường sống của con
người và những động vật khác trên hành tinh địa cầu được
sạch hơn và an toàn hơn.
Khi những yêu cầu chính đáng trên được Nhà nước qui định bằng
pháp luật và Nhà đầu tư chấp hành nghiêm chỉnh thì chắc chắn là
kinh phí cho điện gió sẽ thấp hơn kinh phí đầu tư của những công
trình nhiệt điện, thủy điện hoặc điện nguyên tử rất nhiều.
Cụ thể là kinh phí đầu tư những công trình nhiệt điện, thủy điện,
điện nguyên tử phải có kinh phí để cải tạo lại môi trường, hệ
sinh thái và đền bù tất cả những thiệt hại do công trình gây ra.
Nguồn, chi tiết và tài liệu tham khảo
xin xem thêm tập sách ĐIỆN GIÓ.
Phát hành ngày 12 tháng 3 năm 2012
Nhà xuất bản Lao Động, Công ty sách
Mybook và Công ty Văn hóa Phương
Nam - TP Hồ Chí Minh.
Nguyễn Ngọc Tân
nguyenngoctan@hotmail.com
Backup
Việc lắp đặt cột đo tốc độ và hướng gió nên theo hững nguyên tắc cơ bản:
• Cột nên được lắp đặt thẳng đứng.
• Những thiết bị đo gió phải nằm ở vị trí thẳng đứng vì trị số đo sẽ không chính
xác khi Sensor bị nghiêng.
• Thiết bị đo không được nằm gần thân cột để tránh vùng gió xáo động, thanh giữ
thiết bị không được rung, độ rung nếu xảy ra sẽ làm số liệu sai.
• Thiết bị đo gió chính (Top-Anemometer) phải đặt ở vị trí giữa cột tại điểm cao
nhất và không bị những vật khác cản ngòai thanh thu sét nhỏ nằm gần.
• Thiết bị đo gió thứ hai hoặc thứ ba phải được lắp đặt trên một thanh kim lọai và
cao hơn thanh này từ 30 đến 60 cm ở vị trí 45 độ theo chiều gió chính.
• Thanh thu sét có thiết diện khoảng 2 cm nên đặt ở vị trí cao nhất của cột và có
khoảng cách đến thiết bị đo gió chính là 50 cm, thanh thu sét phải được gắn chặt
vào cột và không gây ra ảnh hưởng rung.
• Đuôi chong chóng gió nên đặt ở vị trí cao nhưng dưới thiết bị đo gió chính ít
nhất là 1,5 mét. Phương pháp lắp đặt tương tự như lắp đặt thiết bị đo gió.
• Đường dây điện từ thiết bị đến cột và xuống tủ điện phải được gắn chặt vào thân
cột với từng khoảng cách 0,5 mét, tốt nhất là đường dây nên nằm phía trong thân
cột. Dây phải có độ bền vật liệu cao, chịu được ảnh hưởng của thời tiết, tia nắng
mặt trời và muối trong không khí, đặc biệt tại những nơi ven bờ hoặc ngòai khơi.
Lắp đặt cột đo tốc độ và hướng gió
Hệ số Hellman (exponential coefficient) là hệ số mũ dự toán về
lớp ma sát của khí quyển tùy theo địa hình. Trên mặt biển hệ số
Hellman α là khoảng 0,06; trong thành phố là từ 0,4 đến 0,60.
Hệ số Hellman
Hệ số Hellman tại những địa hình khác nhau
Phương pháp tính tốc độ gió tại tâm cánh quạt này không áp dụng được cho
những nơi có địa hình nhấp nhô như đồi núi, rừng hoặc nơi có nhiều chướng
ngại như nhà cao tầng. Tại những nơi này việc xác định tiềm năng gió phải
dựa theo phương pháp đo SODAR.
Tua-bin điện gió tùy theo công suất thường có độ cao tâm cánh quạt khoảng từ
90 đến 135 mét. Tuy nhiên những trị số về tốc độ gió của những Đài Khí
Tượng trên thế giới cũng là cơ sở để tính ra tốc độ gió ở những độ cao khác
nhau theo công thức phổ biến được áp dụng là:
trong đó:
: Tốc độ gió ở độ cao h. (velocity of the wind at height, h [m/s]).
: Tốc độ gió ở độ cao h10 = 10 mét [m/s].
α : Hệ số Hellman từ 0,06 đến 0,60 tùy theo địa hình, vị trí bờ biển, trên núi,
thung lũng, trong thành phố cũng như chất lượng của môi trường không khí.
hoặc theo phương trình:
Điện mặt trời
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- c3_cong_nghiep_dien_gio_2012_do_ngoc_tan_6866.pdf