Chuyển đổi mục tiêu đầu tư để tìm kiếm những khoản lợi nhuận
khác lớn hơn luôn là lẽ thường trong hoạt động của các nhà đầu
tư. Thị trường chứng khoán không phải lúc nào cũng dễ dàng
như mong muốn: có những lúc thị trường chứng khoán lên giá
khiến nhiều nhà đầu tư “mừng ra mặt”, nhưng cũng có khi thị
trường sụt giảm làm không ít nhà đầu tư “mất ăn mất ngủ”. Nhiều
người đã chuyển hướng đầu tư để tránh thua lỗ. Nhưng liệu
những hành động như vậy có phải vào thời điểm nào cũng được
coi là thích hợp?
10 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1008 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Có nên chuyển đổi mục tiêu đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận khác?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Có nên chuyển đổi mục tiêu đầu
tư để tìm kiếm lợi nhuận khác?
Chuyển đổi mục tiêu đầu tư để tìm kiếm những khoản lợi nhuận
khác lớn hơn luôn là lẽ thường trong hoạt động của các nhà đầu
tư. Thị trường chứng khoán không phải lúc nào cũng dễ dàng
như mong muốn: có những lúc thị trường chứng khoán lên giá
khiến nhiều nhà đầu tư “mừng ra mặt”, nhưng cũng có khi thị
trường sụt giảm làm không ít nhà đầu tư “mất ăn mất ngủ”. Nhiều
người đã chuyển hướng đầu tư để tránh thua lỗ. Nhưng liệu
những hành động như vậy có phải vào thời điểm nào cũng được
coi là thích hợp?
Câu hỏi đặt ra với các nhà đầu tư chứng khoán là họ có nên rút
tiền đầu tư để mua trái phiếu, vàng hoặc ngoại tệ mạnh trước
việc giá cổ phiếu sụt giảm không? Câu trả lời không dễ dàng chút
nào, bởi vì có một điều không thể phủ nhận đó là yếu tố bất ổn
tâm lý luôn là kẻ thù của các nhà đầu tư.
Một quyết định mua hay bán ở thị trường chứng khoán có thể
ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ quá trình đầu tư của bạn. Tại Mỹ
và châu Âu, rất nhiều nhà đầu tư cá nhân đã tìm đến các chuyên
gia tư vấn, những nhà môi giới chuyên nghiệp trước khi quyết
định đầu tư. Điều này gần như đã trở thành đương nhiên, bởi nếu
bạn có một quyết định đầu tư không sáng suốt thì việc khắc phục
hậu quả sẽ làm bạn đau đầu hơn nhiều. Tất nhiên, khi bị thua lỗ
thì nhiều nhà đầu tư tỏ ra chán nản với thị trường chứng khoán.
Thực tế, nếu thị trường chứng khoán có thể đem lại lợi nhuận lớn
trong một thời gian ngắn thì cũng có thể làm cho nhà đầu tư
chứng khoán thua lỗ lớn cũng trong một thời gian như vậy. Do
vậy, những nhà đầu tư tham gia vào thị trường cần phải chấp
nhận luật chơi đó.
Patrick W Cabe, phó tổng giám đốc Citibank, ngân hàng lớn nhất
nước Mỹ, khi nhận xét về sự tăng giảm giá các loại cổ phiếu trên
thị trường chứng khoán đã cho biết: “Thị trường biến động quá
nhanh và tính ổn định kém. Đây là những nhân tố ảnh hưởng đến
khả năng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán của
các công ty niêm yết. Một số nhà đầu tư đã rút tiền khỏi tài khoản
để mua vàng khi giá vàng tăng khá mạnh trong thời gian gần đây.
Tôi cho rằng, các nhà đầu tư này nếu bắt chước một số khách
hàng của ngân hàng rút đô la Mỹ (USD) bán lấy đồng nội tệ rồi đi
mua vàng, thì họ sẽ bị thua thiệt”.
Dự trữ vàng có điều bất lợi là không sinh lời như kiểu cho vay. Nó
có điều lợi duy nhất là trong thời gian dài vừa qua giá vàng đã
tăng lên đáng kể. Vậy đầu tư vào vàng nhiều hay ít là tuỳ thuộc
vào sự tiên đoán về biến chuyển của giá vàng trên thị trường
quốc tế. Biến động này thay đổi tuỳ theo ba thời kỳ như sau:
- Từ năm 1930-1968: giá vàng trên thị trường thế giới gần như ổn
định ở mức 35 USD/Ounce = 35 USD / 31,103 gr. Bất cứ ai tích
trữ vàng cũng đều mất một khoản tiền lời và những khoản lợi tức,
trong khi họ có thể dùng vốn đầu tư vàng vào việc đầu tư thứ
khác. Trong thời kỳ này đầu tư vàng bất lợi hơn so với đầu tư
ngoại tệ.
- Từ 1968 - tháng 7 năm 1973: Giá vàng đã bắt đầu chuyển biến
mạnh, nhất là từ ngày 15-08-1971 khi Mỹ quyết định thả nổi đồng
USD, để cho giá vàng biến chuyển theo luật cung cầu trên thị
trường. Vì vậy, giá vàng từ dưới 40 USD/ ounce lên tới 130
USD/ounce vào tháng 7 năm 1973, rồi cứ thế thăng trầm theo
chiều hướng đi lên theo đà mất giá của đồng Mỹ kim, xuất phát từ
tình trạng lạm phát và thâm thủng trong cán cân thanh toán của
Mỹ. Tình trạng đó kéo dài tới 1980 với giá gần 700 USD/ounce.
- Từ năm 1988 cho tới nay dưới tác động của sự hoà dịu giữa
Đông và Tây, giá vàng đã giảm mạnh, từ 460 USD (tháng 5 năm
1988) lại thăng trầm theo chiều hướng đi xuống tới mức chỉ còn
370 USD (tháng 5 năm 1989), tăng lên 400 USD vào cuối năm
1989 và đầu năm 1990 nhưng rồi dần dần giảm xuống mức 350
USD vào tháng 6 năm 1998, đến nay giá vàng đang trong xu
hướng tăng trở lại. Giá vàng trong năm 2006 này có nhiều khả
năng sẽ phá vỡ các kỷ lục trước đó. Hiện nay mức cản kỹ thuật
575 USD/ounce đã bị phá vỡ và thị trường đang nhắm đến mức
600USD/ounce. Tuy nhiên, dự đoán trong tương lai giá vàng
không thể lên cao được như trước đây mà sẽ có khuynh hướng
ổn định lâu dài
Giá vàng tăng chỉ là nhất thời do yếu tố tâm lý, do vậy khi cú sốc
tâm lý qua đi thì sẽ bình ổn trở lại và có thể giá vàng sẽ thấp hơn
thời điểm hiện nay. Những người rút tiền đi mua vàng sẽ chịu
thiệt bởi phải mua đắt bán rẻ và thiệt hại này sẽ lớn hơn bình
thường khi họ mua đúng vào thời điểm vàng đang “sốt”.
Đối với việc đầu tư ngoại tệ, hình thức này có điểm lợi hơn so với
đầu tư vàng là có thể dùng ngoại tệ để mua những trái phiếu
ngắn hạn trên thị trường quốc tế. Số thặng dư ngoại tệ dùng vào
mục đích sinh lợi nói trên bao gồm những ngoại tệ mạnh được tự
do chuyển đổi. Căn cứ mọi diễn biến của thanh toán quốc tế, các
nhà đầu tư sẽ phân tích, tính toán để có thể chuyển đổi từ một
thứ ngoại tệ đang mất giá sang thứ ngoại tệ mạnh khác đang
tăng giá. Không nên đầu tư vào những ngoại tệ không chuyển đổi
tự do được.
Patrick khuyên rằng để hạn chế bớt rủi ro, những nhà đầu tư nhỏ
cần quan tâm đến các loại trái phiếu vì trái phiếu có độ an toàn và
tính ổn định cao hơn. Thuật ngữ “Corporate bond” đã không còn
xa lạ với nhiều nhà đầu tư ngày nay, bởi đây là một trong những
phương thức đầu tư an toàn và hiệu quả. Hiện nay, trái phiếu
ngoại tệ mà các ngân hàng thương mại đang phát hành có thể
coi là một cơ hội rất tốt cho những nhà đầu tư muốn tìm kiếm một
công cụ đầu tư tài chính thích hợp.
Mặc dù vậy, theo Patrick thì mặc dù đầu tư vào trái phiếu không
thể đem lại lợi nhuận như đầu tư cổ phiếu, nhưng các nhà đầu tư
cần hiểu rằng, lợi nhuận lớn luôn đi kèm với mức độ rủi ro cao và
trong một thị trường có tính ổn định kém thì rủi ro sẽ càng lớn,
chẳng hạn như rủi ro về lãi suất thị trường, giá của một trái phiếu
công ty sẽ thay đổi theo hướng ngược lại với lãi suất thị trường.
Khi lãi suất thị trường tăng, giá trái phiếu sẽ giảm và ngược lại.
Hay khi bán một trái phiếu trước ngày đáo hạn, thì khi lãi suất thị
trường tăng, nhà đầu tư sẽ lỗ vốn, có nghĩa là bán trái phiếu thấp
hơn giá mua vào. Trái phiếu còn vướng phải rủi ro về lạm phát.
Rủi ro này xuất hiện khi trị giá lưu lượng tiền mặt của một trái
phiếu thay đổi do lạm phát. Ví dụ, nếu nhà đầu tư mua một trái
phiếu có lãi suất 8%/năm, nhưng tỷ lệ lạm phát là 9%/năm, thì
thực tế, sức mua lưu lượng tiền mặt đã giảm. Ngoại trừ trái phiếu
lãi suất thả nổi, còn đầu tư vào tất cả trái phiếu khác đều chịu rủi
ro lạm phát, vì mức lãi suất được công ty phát hành cam kết sẽ
cố định trong suốt kỳ hạn của trái phiếu.
Có thể nói, không có hình thức đầu tư nào là an toàn và hiệu quả
tuyệt đối cả. Trước đây, khi nói về kinh nghiệm đầu tư của mình,
các nhà đầu tư thành đạt nhất trên thế giới như W.Buffet hay
G.Soros... đều hay nhắc đến hai kẻ thù mà họ cho rằng không thể
đội trời chung, đó là “lòng tham” và “nỗi sợ hãi”. Hai kẻ thù này
nằm ngay trong con người các nhà đầu tư mà chính họ lại không
biết, hay có biết thì cũng hết sức chủ quan không để ý cho đến
khi thất bại xảy ra. Điều quan trọng nằm ở chính là sự bình tĩnh,
biết kiềm chế để có những tính toán hợp lý của các nhà đầu tư.
Sẽ là quá muộn nếu các nhà đầu tư không nhận ra rằng thị
trường chứng khoán không phải là nơi tiêu tiền nhanh và vô bổ
nhất, cũng như không phải là nơi kiếm tiền dễ dàng và nhàn nhã
nhất. Và chỉ có những nhà đầu tư biết có cái đầu lạnh và sáng
suốt mới tránh được sự hối tiếc, nếu một ngày kia giá chứng
khoán tăng trở lại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- co_nen_chuyen_doi_muc_tieu_dau_tu_de_tim_kiem_loi_nhuan_khac.pdf