Doanh nghiệp nhà nước trong đó các Tổng công ty nhà nước có vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế nước ta ,đặc biệt là trong điều kiện kinh tế thị trưòng ,định hướng xã hội chủ nghĩa. Các Tổng công ty nhà nước giữ những vị trí then chốt nhất, những tượng đài chỉ huy, bánh lái của nền kinh tế, đảm bảo những điều kiện phát triển ,những cân đối lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân và đảm nhận những trách nhiệm, những nhiệm vụ xã hội quan trọng đồng thời còn có sứ mệnh rất lớn là tạo điều kiện và thúc đẩy toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước còn là công cụ trong tay nhà nước, lôi cuốn các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII), nghị quyết số 10/ NQTW của Bộ chính trị (khoá VII), ngày 7 tháng 3 năm 1994 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 90/TTg và Quyết định số 91/TTg, tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập các Tổng công ty Nhà nước.
Trong hơn 10 năm qua Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước và đặc biệt coi trọng vai trò chủ đạo của các Tổng công ty Nhà nước. Các Tổng công ty Nhà nước cùng với các doanh nghiệp Nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo, ổn định kinh tế xã hội, tăng thế và lực của đất nước.
Trong những năm qua, nhìn chung các Tổng công ty hoạt động có hiệu quả, tăng trưởng liên tục, đóng góp nghĩa vụ cho ngân sách Nhà nước, tạo việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động. Tuy nhiên các Tổng công ty nhà nước còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhược điểm. Hệ thống tổ chức được hình thành chủ yếu bằng phương pháp hành chính nên chưa tạo được sức mạnh tổng hợp, nhiều vấn đề thuộc về cơ chế chính sách không còn phù hợp nhưng chưa được sửa đổi kịp thời. Chức năng quản lý của Hội đồng quản trị, quyền điều hành của Tổng giám đốc Tổng công ty, quan hệ quản lý giữa Tổng công ty với các công ty thành viên, quan hệ kinh doanh giữa các công ty thành viên với nhau chưa rõ ràng, còn ràng buộc mang tính mệnh lệnh hành chính, chưa thực sự gắn kết trong hệ thống Tổng công ty, ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các Tổng công ty Nhà nước.
Để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện nghị quyết Đại hội IX của Đảng, nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước; thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Kinh tế Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước; các Tổng công ty Nhà nước phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vững vị trí then chốt, dẫn dắt nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế Quốc tế. Tập trung hơn nữa nguồn lực để chi phối nền kinh tế, làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn ổn định kinh tế vĩ mô, cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách.
Để hoàn thành được yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng đã xác định, các Tổng công ty Nhà nước phải nâng cao sức cạnh tranh, thực hiện tích tụ, tập trung vốn, chuyên môn hoá sâu và hợp tác hoá rộng, làm nền tảng cho việc chuyển đổi về chất từ Tổng công ty Nhà nước sang tập đoàn kinh tế mạnh; các Tổng công ty cần phải được thường xuyên đổi mới, tổ chức sắp xếp lại nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động.
Tổng kết, đánh giá lại những cái được và chưa được trên các lĩnh vực về tổ chức màng lưới, vốn hoạt động, lao động, cơ chế quản lý, phạm vi và quy mô, sản phẩm hàng hoá dịch vụ, doanh thu, lợi nhuận, nghĩa vụ nộp ngân sách từ đó rút ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan, những tồn tại vướng mắc trong cơ chế chính sách, trong chỉ đạo, trong tổ chức thực hiện vv.làm hạn chế đến kết quả kinh doanh và sự phát triển của các Tổng công ty Nhà nước, từ đó đề xuất một số giải pháp, đề xuất, kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Tổng công ty Nhà nước.
Trong thời gian được theo học lớp Cao cấp Lý luận Chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia, cùng với việc nghiên cứu chủ trương đường lối phát triển kinh tế thông qua các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, và thực tế hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước hiện nay, tôi đã chọn đề tài: "Vai trò của Tổng công ty nhà nước và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước" làm chuyên đề tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia .
55 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1108 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Vai trò của Tổng công ty nhà nước và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần mở đầu
Tính cấp thiết cuả đề tài:
Doanh nghiệp nhà nước trong đó các Tổng công ty nhà nước có vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế nước ta ,đặc biệt là trong điều kiện kinh tế thị trưòng ,định hướng xã hội chủ nghĩa. Các Tổng công ty nhà nước giữ những vị trí then chốt nhất, những tượng đài chỉ huy, bánh lái của nền kinh tế, đảm bảo những điều kiện phát triển ,những cân đối lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân và đảm nhận những trách nhiệm, những nhiệm vụ xã hội quan trọng đồng thời còn có sứ mệnh rất lớn là tạo điều kiện và thúc đẩy toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước còn là công cụ trong tay nhà nước, lôi cuốn các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII), nghị quyết số 10/ NQTW của Bộ chính trị (khoá VII), ngày 7 tháng 3 năm 1994 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 90/TTg và Quyết định số 91/TTg, tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập các Tổng công ty Nhà nước.
Trong hơn 10 năm qua Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước và đặc biệt coi trọng vai trò chủ đạo của các Tổng công ty Nhà nước. Các Tổng công ty Nhà nước cùng với các doanh nghiệp Nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo, ổn định kinh tế xã hội, tăng thế và lực của đất nước.
Trong những năm qua, nhìn chung các Tổng công ty hoạt động có hiệu quả, tăng trưởng liên tục, đóng góp nghĩa vụ cho ngân sách Nhà nước, tạo việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động. Tuy nhiên các Tổng công ty nhà nước còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhược điểm. Hệ thống tổ chức được hình thành chủ yếu bằng phương pháp hành chính nên chưa tạo được sức mạnh tổng hợp, nhiều vấn đề thuộc về cơ chế chính sách không còn phù hợp nhưng chưa được sửa đổi kịp thời. Chức năng quản lý của Hội đồng quản trị, quyền điều hành của Tổng giám đốc Tổng công ty, quan hệ quản lý giữa Tổng công ty với các công ty thành viên, quan hệ kinh doanh giữa các công ty thành viên với nhau chưa rõ ràng, còn ràng buộc mang tính mệnh lệnh hành chính, chưa thực sự gắn kết trong hệ thống Tổng công ty, ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các Tổng công ty Nhà nước.
Để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện nghị quyết Đại hội IX của Đảng, nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước; thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Kinh tế Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước; các Tổng công ty Nhà nước phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vững vị trí then chốt, dẫn dắt nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế Quốc tế. Tập trung hơn nữa nguồn lực để chi phối nền kinh tế, làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn ổn định kinh tế vĩ mô, cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách.
Để hoàn thành được yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng đã xác định, các Tổng công ty Nhà nước phải nâng cao sức cạnh tranh, thực hiện tích tụ, tập trung vốn, chuyên môn hoá sâu và hợp tác hoá rộng, làm nền tảng cho việc chuyển đổi về chất từ Tổng công ty Nhà nước sang tập đoàn kinh tế mạnh; các Tổng công ty cần phải được thường xuyên đổi mới, tổ chức sắp xếp lại nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động.
Tổng kết, đánh giá lại những cái được và chưa được trên các lĩnh vực về tổ chức màng lưới, vốn hoạt động, lao động, cơ chế quản lý, phạm vi và quy mô, sản phẩm hàng hoá dịch vụ, doanh thu, lợi nhuận, nghĩa vụ nộp ngân sách từ đó rút ra những nguyên nhân khách quan, chủ quan, những tồn tại vướng mắc trong cơ chế chính sách, trong chỉ đạo, trong tổ chức thực hiện vv...làm hạn chế đến kết quả kinh doanh và sự phát triển của các Tổng công ty Nhà nước, từ đó đề xuất một số giải pháp, đề xuất, kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Tổng công ty Nhà nước.
Trong thời gian được theo học lớp Cao cấp Lý luận Chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia, cùng với việc nghiên cứu chủ trương đường lối phát triển kinh tế thông qua các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, và thực tế hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước hiện nay, tôi đã chọn đề tài: "Vai trò của Tổng công ty nhà nước và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước" làm chuyên đề tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia .
Nội dung chủ yếu và nhiệm vụ của đề tài:
Vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào thực tiễn công cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thì việc hình thành các Tổng công ty Nhà nước, các tập đòan kinh tế mạnh của Nhà nước là đòi hỏi thực tế khách quan nhằm nâng cao sức cạnh tranh, thực hiện tích tụ tập trung vốn, chuyên môn hoá sâu, hợp tác hoá rộng. Đề tài tập trung phân tích quá trình hình thành, quá trình hoạt động, những ưu điểm, của các Tổng công ty Nhà nước trong cơ chế thị trường thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển, việc tích tụ, tập trung và điều hoà các nguồn lực, về thị trường và xuất khẩu, bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế; đồng thời cũng nhìn nhận một cách khách quan những tồn tại, yếu kém của các Tổng công ty Nhà nước trong các lĩnh vực: Tổ chức và các mối quan hệ, về công tác tổ chức và cán bộ, mối quan hệ giữa tổng công ty Nhà nước và các đơn vị thành viên, mối quan hệ giữa các đơn vị thành viên với nhau, mối quan hệ giữa Tổng công ty Nhà nước với cấp chủ quản là các Bộ, Ngành, các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, những vấn đề còn vướng mắc của các cơ chế chính sách làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước. Trên cơ sở phân tích những mặt được, những tồn tại của các Tổng công ty Nhà nước, rút ra những nguyên nhân, đề xuất và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Tổng công ty Nhà nước bao gồm: Thực hiện chủ trương tiếp tục sắp xếp lại các Tổng công ty Nhà nước; thí điểm thành lập mô hình tập đoàn kinh doanh mạnh; vấn đề tự nguyện tham gia Tổng công ty Nhà nước của các đơn vị thành viên; mối quan hệ giữa Tổng công ty Nhà nước với các công ty thành viên; vấn đề đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp; việc tiếp tục nghiên cứu sửa đổi một số chính sách cho phù hợp với hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu:
Tiếp tục củng cố và sắp xếp lại doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Tổng công ty nhà nước, thành lập các Tập đoàn kinh tế mạnh ở Việt Nam vừa là đòi hỏi thực tế khách quan trong quá trình phát triển kinh tế nước ta vừa là chủ trương lớn của Đảng ta trong công cuộc lãnh đạo nền kinh tế đất nước, đồng thời cũng là kết quả của những kinh nghiệm rút ra trong hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế của Đảng. Vì vậy phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là: lấy phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và các môn khoa học xã hộ làm cơ sở, đồng thời xuất phát từ chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng, sự vận dụng nguyên lý Chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: sử dụng phương pháp nghiên cứu hệ thống, thông qua nghiên cứu, tổng hợp; căn cứ các báo cáo tổng kết của ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Trung ương, khai thác, sưu tầm các tư liệu hoạt động của một số Tổng công ty nhà nước, kết hợp với những nhận thức của cá nhân qua thực tế hoạt động và kiến thức sau khoá học lý Cao cấp Lý luận Chính trị tại - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Kết cấu luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn chia thành 3 chương
Chương I
Một số nhận thức lý luận làm cơ sở xây dựng
các tổng công ty nhà nước ở nước ta
I- Lý luận của chủ nghĩa mác-lê nin và vận dụng vào thực tiễn Việt Nam trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội
Vận dụng nguyên lý chủ nghĩa Mác- Lê nin vào thực tế Cách mạng ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: sau khi hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, dân chủ nhân dân, nước ta chuyển sang thực hiện nhiệm vụ của thời kì quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ qúa độ là: Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội; xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, mang nặng tính tự cung, tự cấp của nước ta, đòi hỏi khách quan phải xây dựng nền sản xuất lớn dựa trên cơ sở nền công nghệ hiện đại, trải qua quá trình phát triển nhiều chặng đường. Xuất phát từ kết quả của những năm đổi mới, từ những tiền đề đã được tạo ra, Đảng ta đã nhận định: Nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, đến năm 2020 cơ bản thành nước công nghiệp.
Đứng trước những thời cơ, thuận lợi, nguy cơ và những thách thức mới , Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng ta đã xác định “Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá ” (1), “ Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.”(2). Đến đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta nhận định: “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa so với các nước xung quanh, giữ vững được ổn định chính trị,xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa. ‘(3).
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay được tiến hành theo nhận thức mới, Nghị quyết VII của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII cho rằng “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xẵ hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao ” và “ Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ” (4).
Các văn kiện đại hội Đảng ta đã khẳng định trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế Nhà nước; kinh tế hợp tác; kinh tế Tư bản Nhà nước; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân và tại Đại hội Đảng lần thứ IX, từ quan điểm mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, ở nước ta có thêm: thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đảng ta luôn khẳng định tư tưởng nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và coi đó là đường lối chiến lược lâu dài ở nước ta. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân gắn liền với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay Đảng ta xác định trong nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; Thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy tiềm năng và tiềm lực của các thành phần kinh tế , của toàn xã hội. Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Đảng ta cũng đã chỉ đạo đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để tạo sức bật mới cho sự phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế. Mọi thành phần kinh tế, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh tế theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, là bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế Nhà nước là một trong những công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, có nhiệm vụ đảm bảo những cân đối chủ yếu của nền kinh tế và là cơ sở thực hiện định hướng xã hôị chủ nghĩa của nền kinh tế. Bởi vậy kinh tế Nhà nước phải nắm vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Đại hội IX đã chỉ ra. Vai trò đó thể hiện ở chỗ: mở đường và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển; thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế, là một công cụ có sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; là nền tảng của xã hội mới.
Đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; Nắm vững vị trí then chốt trong nền kinh tế; nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả để thực hiện vai trò chủ đạo. Doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong việc thực hiện phát triển những ngành sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng và công nghiệp công nghệ cao .
Kinh tế Nhà nước phải vận động theo hướng ngày càng được nâng cao vai trò, vị trí của mình, với mức độ, phạm vi phù hợp, ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thờì với việc xác định chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là việc tạo lập đồng bộ các loại thị trường, đổi mới quản lý nhà nước. Hình thành đồng bộ các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý cần thiết để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có kỷ cương trong cạnh tranh lành mạnh, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có biện pháp chống gian lận thương mại. Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường, tạo điều kiện để phát huy mặt tích cực, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển, thực hiện những dự án phát triển bằng nguồn lực tập trung; đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; điều tiết thu nhập hợp lý; kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật; giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, công khai hoá và thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp.Tập trung vào xoá bỏ những quy định và thủ tục mang tính hành chính quan liêu, bao cấp, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất .
Đặc trưng của cơ chế thị trường là có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội. Cơ chế thị trường kích thích sự phát triển sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu, tăng cường chuyên môn hoá sản xuất vào các ngành, các lĩnh vực, nhất làm tăng năng suất lao động xã hội. Song cơ chế thị trường dễ phá vỡ những cân đối tổng thể của nền kinh tế xã hội, thường nảy sinh ra những khuyết tật, gây tác hại cho nền kinh tế và cho doanh nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi doanh nghiệp kinh doanh, mỗi ngành, mỗi địa phương đều có lợi ích riêng của mình và đều tìm mọi cách để tối ưu những lợi ích đó, do đó có thể xảy ra hiện tượng lợi ích của doanh nghiệp, địa phương này tăng lên, làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp khác, địa phương khác. Nhà nước với tư cách điều hành nền kinh tế phải thực hiện sự định hướng; tạo lập các cân đối vĩ mô, ngăn ngừa các đột biến xấu, điều hành các quan hệ kinh tế bằng các công cụ và chính sách, hướng dẫn và tạo môi trường và điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Việc khai thác những ưu điểm, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường không thể thiếu vai trò của nhà nước, với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, trong đó các doanh nghiệp nhà nước loại lớn là một công cụ hữu hiệu.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là tất yếu khách quan, hợp quy luật và là nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta. Đồng thời đó cũng là một quá trình khó khăn phức tạp vì phải đổi mới cả một cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý. Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường cũng như khi cơ chế thị trường đã được xây dựng đồng bộ, vai trò quản lý của nhà nước càng tăng lên nhưng không có nghĩa là nhà nước nắm tất cả, can thiệp vào tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi nhà nước phải có trình độ, năng lực và chất lượng cao trong quản lý kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh: “Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhằm phát huy tác động tích cực to lớn đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường”. Trong quá trình đổi mới Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần để góp phần phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là chính sách nhất quán, lâu dài trong cả thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội .
Để thực hiện có hiệu quả chính sách đó Đảng chỉ đạo tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước là đểđảm bảo cho kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đó là vấn đề rất lớn trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần .
Việc sắp xếp, đổi mới , nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là việc mà Đảng ta quan tâm và được triển khai ngay từ thời kỳ đổi mới và nhất là trong 10 năm qua (1991 - 2001).
Nghị quyết lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về việc: Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước đã xác định quan điểm chỉ đạo: Kinh tế Nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị xã hội của đất nước. Doanh nghiệp Nhà nước phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vững vị trí then chốt nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp Nhà nước phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Điều chỉnh để doanh nghiệp Nhà nước có cơ cấu hợp lý , tập trung vào những ngành , lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với những sản phẩm và dịch vụ chủ yếu. Tiếp tục đổi mới quản lý để doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và kinh doanh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành pnần kinh tế khác theo luật pháp. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần thiết nhưng không biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Mục tiêu là sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước .
Trong những năm gần đây, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cùng với việc từng bước xoá bỏ tập trung bao cấp, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, khu vực kinh tế Nhà nước đã có nhiều biến đổi quan trọng, Nhà nước đã giảm mạnh bao cấp đối với doanh nghiệp Nhà nước, chuyển các doanh nghiệp này sang chế độ hạch toán kinh tế, nâng cao quyền tự chủ của doanh nghiệp, đáp ứng xu hướng vận động mang tính phổ biến chủ đạo của các hình thức tổ chức kinh tế đó là tập trung hoá và liên hiệp hoá, chuyên môn hoá và hiệp tác hoá. Tập trung hoá là quá trình lớn lên của doanh nghiệp xét về quy mô, bằng cách các doanh nghiệp sáp nhập lại với nhau, hợp nhất với nhau, hoặc các doanh nghiệp tự mở rộng quy mô của chính mình, quá trình đó làm cho số doanh nghiệp giảm đi, tương ứng thì quy mô doanh nghiệp tăng lên.
Tập trung hoá và liên hiệp hoá là xu hướng chủ đạo của hình thức tổ chức kinh tế; xu hướng chuyên môn hoá và hiệp tác hoá là nội dung chủ yếu, là hai mặt hữu cơ của phân công lao động xă hội, đó là quan hệ hữu cơ thúc đẩy nhau, tạo hiệu quả kinh doanh.
Do tác động của khoa học công nghệ cũng như nhu cầu mở rộng kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh và tăng lợi nhuận, ở các nước phát triển buộc phải đi vào tổ chức các tập đoàn doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp mạnh, mặc dù các nước này vẫn tồn tại khá nhiều các doanh nghiệp nhỏ trụ vững được trong cạnh tranh, song xu hướng chủ đạo vẫn là phải hình thành và phát triển những tập đoàn kinh tế lớn. Các tập đoàn này chiếm vị trí hết sức trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân.
ở nước ta với mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc hình thành tập đoàn kinh tế mạnh, hình thành các tổng công ty một cách khoa học, khách quan, cần thiết là một đòi hỏi bức xúc hiện nay.
II - quá trình hình thành các Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam và quan niệm về hiệu quả của chúng
1. Sự ra đời các tổng công ty ở Việt Nam
Trên cơ sở sắp xếp và làm thủ tục thành lập và đăng ký lại doanh nghiêp Nhà nước theo quy chế về thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước ban hành theo Nghị định số 388-HĐBT ngày 20 tháng 11 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ ) đã được các Bộ, địa phương và các doanh nghiệp Nhà nước triển khai thực hiện đã đạt được một bước quan trọng, Chính phủ đã có Quyết định số 90/TTg và Quýêt định số 91/TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994, tiếp tục thành lập lại các doanh nghiệp Nhà nước, tiến hành kiểm tra, rà soát, phân tích đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước, chấn chỉnh tổ chức quản lý , tiếp tục sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh và từng bước tổ chức lại một cách hợp lý các doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động cùng ngành nghề trên cùng một điạ bàn theo hướng không phân biệt doanh nghiệp Nhà nước do Trung ương hay địa phương quản lý . Sắp xếp, thành lập và đăng ký lại các Liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty. Những Tổng công ty được xem xét thành lập và đăng ký lại khi có ít nhất 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về công nghệ, tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ, thông tin, đào tạo; toàn Tổng công ty có vốn pháp định trên 500 tỷ đồng, đối với một số Tổng công ty trong những ngành đặc thù thì vốn pháp định có thể thấp hơn nhưng không được ít hơn 100 tỷ đồng. Tổng công ty thực hiện hạch toán kinh tế theo một trong hai hình thức: Hạch toán toàn Tổng công ty, các đơn vị thành viên hạch toán báo sổ và Hạch toán tổng hợp có phân cấp cho các đơn vị thành viên; có luận chứng kinh tế - kỹ thuật về việc thành lập Tổng công ty và đề án kinh doanh của Tổng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100528.doc