Trong điều kiện nước ta hiên nay, sự đổi mới cơ chế quản lý về kinh tế của Đảng và nhà Nước ta, từ cơ chế quản lý tâp trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước đã đặt các doanh nghiệp Nước ta trước những cơ hội mới và thách thức mới. Nhà Nước tạo ra một môi trường kinh tế năng động với sự đa dạng về các nghành nghề, các loại hình kinh doanh cũng như các đối tượng để hợp tác và sự cởi mở của cơ chế hành chính, luật pháp đã giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vực kinh doanh, hình thưc công tác tổ chức sản xuất một cách tối ưu nhất, hiệu quả nhất. Mặt khác các doanh nghiệp cũng phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường, do vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được, thì doanh nghiệp phải đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng như: sản phẩm sản xuất ra phải nhiều về số lượng, nâng cao về chất lượng và đa dạng về loại hình sản phẩm, tất nhiên đi cùng với nó là giá thành phải thấp hơn với các mặt hàng mà doanh nghiệp khác cũng sản xuất ra.
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được, thì phải quan tâm chú trọng đến chất lượng sản phẩm, đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp sau mỗi chu kì sản xuất kinh doanh. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp về chất lượng cũng như giá thành càng trở nên mạnh mẽ hơn. Vì vậy để cạnh tranh được các doanh nghiệp phải giảm chi phí sản xuất, hạ thấp giá thành sản phẩm thì mới có thể tồn tại và phát triển đứng vững trên thị trường được. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là làm thế nào để xác định được mức chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để xác định kết quả sản xuất kinh doanh, điêù đó chỉ có thể làm đươc ở công tác tổ chức tập hợp chi phi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đó là vấn đề rất quan trọng hiên nay. Việc tập hợp chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý chi phí giá thành, và đây cũng là điều kiện quan trọng để thị trường chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp.
Những năm gần đây nền kinh tế chuyển đổi nhiều, nên nhiều doanh nghiệp đã không đứng vững, đặc biệt là các doanh nghệp Nhà Nước đã quen cơ chế bao cấp làm ăn theo kiểu lỗ thật lãi giả.Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những doanh nghiệp nhà nước đã tìm ra cho mình một con đường đi đúng đắn sản xuất ngày càng đi lên quy mô càng được mở rộng, trong những Công Ty đó có Công Ty cổ phần Sông Đà11 thuộc Tổng Công Ty Sông Đà, đây là một doanh nghiệp Nhà Nước với quy mô lớn đã đứng vững và không ngừng phát triển, sản xuất ngày càng đi lên và hoà nhịp với sự phát triển chung của nền kinh tế thị trường Nước ta hiện nay. Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý của Công Ty cũng như quản lý của Nhà Nước.Vì vậy trong thời gian thực tập ở Xí nghiệp Sông Đà 11-3 thuộc Công Ty cổ phần Sông Đà 11 em đã tìm hiểu về công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với đề tài : Tổ chức công tác Kế Toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 11-3 -Công Ty cổ phần Sông Đà 11.
Thông qua đó em đã rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân và hi vọng có thể đưa ra một số ý kiến đóng góp giúp cho việc hoàn thiện công tác này của Công Ty một cách tốt hơn.
Chuyên đề thực tập gồm những nội dung sau:
Phần 1:Những vần đề lý luận chung về Kế Toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Phần 2: Tình hình thực tế về Kề Toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 11-3 – Công Ty cổ phần Sông Đà 11
Phần 3: Một số ý kiến đóng góp nhầm hoàn thiện công tác Kế Toán về tổ chức công tác Kế Toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 11-3- Công Ty Sông Đà 11
Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong các thầy cô giáo giúp đỡ chỉ bảo để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn kế toán - Học Viện Tài Chính đặc biệt là thầy Thái Bá Công, cùng các anh chị trong ban Tài Chính Kế Toán Xí nghiệp Sông Đà 11-3 đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
82 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1036 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp Sông Đà 11-3 – công ty cổ phần Sông Đà 11, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ Tài chính
Học viện tài chính
Khoa kế toán
Chuyên đề tốt nghiệp cuối khoá
Đề Tài:
tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp sông đà 11-3 – công ty cổ phần sông đà 11
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực tập:
Lớp:
Mục lục
* Lời mở đầu:
Chương 1:
Những vấn đề lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản suất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
1.1 Đặc điểm của sản xuất xây lắp - Yêu cầu của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
1.1.1 Đặc điểm của nghành xây lắp
1.1.2 Yêu cầu của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1.2 Những vấn đề chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Xây lắp.
1.2.1 Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
1.2.2 Khái niệm và các loại giá thành trong doanh nghiệp xây dung.
1.3 Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp
1.3.1 Phương pháp kế toán chi phí sản xuất
1.3.2 Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ trong doanh nghiệp xây lắp
1.3.3 Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp
Chương 2 :
tình hình thực tế kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp Sông Đà 11-3
2.1 Một số đặc điểm chung của xí nghiệp sông Đà 11-3-công ty sông Đà 11
Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp Sông Đà 11
Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp Sông Đà 11-3
Đặc điểm quy trình công nghệ và đặc điểm tổ chức hoạt động Sản xuất kinh doanh
Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp Sông Đà 11-3
Đặc điểm tổ chức công tác kế toán ở Xí nghiệp Sông Đà 11-3
2.2 Tình hình thực tế và tổ chức hạch toán về tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại xí nghiệp sông Đà 11-3-công ty sông Đà 11
2.2.1 Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp
Kế toán tập hợp chi phí sử dụng máy thi công
2.2.5 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung
2.2.6 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp
Chương: 3:
Một số ý kiến đề suất nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở xí nghiệp Sông Đà 11-3 – công ty Sông Đà 11
3.1 Đánh giá về thực hiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở xí nghiệp Sông Đà 11-3-công ty Sông Đà 11
3.2 Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở xí nghiệp Sông Đà 11-3-công ty Sông Đà 11.
* Kết Luận
* Tài liệu tham khảo
Lời Mở Đầu
Trong điều kiện nước ta hiên nay, sự đổi mới cơ chế quản lý về kinh tế của Đảng và nhà Nước ta, từ cơ chế quản lý tâp trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước đã đặt các doanh nghiệp Nước ta trước những cơ hội mới và thách thức mới. Nhà Nước tạo ra một môi trường kinh tế năng động với sự đa dạng về các nghành nghề, các loại hình kinh doanh cũng như các đối tượng để hợp tác và sự cởi mở của cơ chế hành chính, luật pháp đã giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vực kinh doanh, hình thưc công tác tổ chức sản xuất…một cách tối ưu nhất, hiệu quả nhất. Mặt khác các doanh nghiệp cũng phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường, do vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được, thì doanh nghiệp phải đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng như: sản phẩm sản xuất ra phải nhiều về số lượng, nâng cao về chất lượng và đa dạng về loại hình sản phẩm, tất nhiên đi cùng với nó là giá thành phải thấp hơn với các mặt hàng mà doanh nghiệp khác cũng sản xuất ra.
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được, thì phải quan tâm chú trọng đến chất lượng sản phẩm, đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp sau mỗi chu kì sản xuất kinh doanh. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp về chất lượng cũng như giá thành càng trở nên mạnh mẽ hơn. Vì vậy để cạnh tranh được các doanh nghiệp phải giảm chi phí sản xuất, hạ thấp giá thành sản phẩm thì mới có thể tồn tại và phát triển đứng vững trên thị trường được. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là làm thế nào để xác định được mức chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để xác định kết quả sản xuất kinh doanh, điêù đó chỉ có thể làm đươc ở công tác tổ chức tập hợp chi phi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đó là vấn đề rất quan trọng hiên nay. Việc tập hợp chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý chi phí giá thành, và đây cũng là điều kiện quan trọng để thị trường chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp.
Những năm gần đây nền kinh tế chuyển đổi nhiều, nên nhiều doanh nghiệp đã không đứng vững, đặc biệt là các doanh nghệp Nhà Nước đã quen cơ chế bao cấp làm ăn theo kiểu lỗ thật lãi giả.Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những doanh nghiệp nhà nước đã tìm ra cho mình một con đường đi đúng đắn sản xuất ngày càng đi lên quy mô càng được mở rộng, trong những Công Ty đó có Công Ty cổ phần Sông Đà11 thuộc Tổng Công Ty Sông Đà, đây là một doanh nghiệp Nhà Nước với quy mô lớn đã đứng vững và không ngừng phát triển, sản xuất ngày càng đi lên và hoà nhịp với sự phát triển chung của nền kinh tế thị trường Nước ta hiện nay. Tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý của Công Ty cũng như quản lý của Nhà Nước.Vì vậy trong thời gian thực tập ở Xí nghiệp Sông Đà 11-3 thuộc Công Ty cổ phần Sông Đà 11 em đã tìm hiểu về công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với đề tài : Tổ chức công tác Kế Toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp Sông Đà 11-3 -Công Ty cổ phần Sông Đà 11.
Thông qua đó em đã rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân và hi vọng có thể đưa ra một số ý kiến đóng góp giúp cho việc hoàn thiện công tác này của Công Ty một cách tốt hơn.
Chuyên đề thực tập gồm những nội dung sau:
Phần 1:Những vần đề lý luận chung về Kế Toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Phần 2: Tình hình thực tế về Kề Toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 11-3 – Công Ty cổ phần Sông Đà 11
Phần 3: Một số ý kiến đóng góp nhầm hoàn thiện công tác Kế Toán về tổ chức công tác Kế Toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Sông Đà 11-3- Công Ty Sông Đà 11
Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong các thầy cô giáo giúp đỡ chỉ bảo để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn kế toán - Học Viện Tài Chính đặc biệt là thầy Thái Bá Công, cùng các anh chị trong ban Tài Chính Kế Toán Xí nghiệp Sông Đà 11-3 đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên thực hiện
Hoàng Văn Luy
Chương 1:
lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
1.1 - đặc điểm của sản xuất xây lắp – yêu cầu của công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây lắp.
- Đặc điểm của nghành xây lắp.
Xây dựng cơ bản là nghành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân. Do là nghành sản xuất công nghiệp đặc biệt so với nghành sản xuất vật chất khác nên XDCB có những đặc điểm về kinh tế kỹ thuật riêng biệt như:
Thứ nhất. Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc có quy mô lớn kết cấu phức tạp và mang tính chất đơn chiếc, nhưng được xây dựng theo thiết kế kỹ thuật và dự toán riêng biệt, hơn thế nữa sản phảm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài và mang tính chất tổng hợp về nhiều mặt như kinh tế, chính trị, kỹ thuật và cả tính nghệ thuật.
Thứ hai. Quá trình sản xuất sản phẩm là quá trình thi công xây dựng các công trình kéo dài từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành và đưa vào sử dụng, quá trình này được chia làm nhiều giai đoạn khác nhau.
Thứ ba. Sản phẩm xây lắp gắn liền với một địa điểm nhất định, nơi sản xuất cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm. Vật tư, lao động, máy thi công phải di chuyển theo địa điểm công trình, hơn thế nữa hoạt động xây lắp thường tiến hành ngoài trời nên thường xuyên chịu tác động về điều kiện tự nhiên, do vậy mà ảnh hưởng đến việc quản lý vật tư, máy móc thiết bị dễ hư hỏng và ảnh hưởng đến viêc thi công và hoàn thành công việc.
Thứ tư. Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thoả thuận với chủ đầu tư từ trước, do vậy mà tính chất của hàng hoá sản phẩm thể hiện không được rõ ràng.
Thứ năm. Đối tượng hạch toán chi phí là các hạng mục công trình, các giai đoạn của hạng mục công trình Vì thế cần phải lập dự toán chi phí và tính giá thành theo từng hạng mục công trình.
Những đặc điểm trên có ảnh hưởng lớn đến công tác Kế Toán tổng hợp của các doanh nghiệp xây lắp và tổ chức công tác Kế Toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1.1.2 - Yêu cầu của công tác Kế Toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
Để đảm bảo thi công đúng tiến độ, đúng thiết kế kỹ thuật, đảm bảo chất lượng công trình…..với các chi phí hợp lý thì các doanh nghiệp xây lắp phải có phương pháp quản lý, tổ chức thi công, quản lý chi phí sản xuât và tính giá thành sản phẩm xây lắp chăt chễ, hợp lý và có hiệu quả nhất.
Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương pháp đấu thầu, giao thầu xây lắp. Vì vậy muốn trúng thầu, được nhận thầu thi công một công trình thì doanh nghiệp phải xây dựng được một mức giá thầu hợp lý dựa trên cơ sở các định mức, đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà Nước ban hành, giá thị trường và bản thân doanh nghiệp phải có năng lực trong xây dựng.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là đảm bảo khả năng kinh doanh có lãi. Thực hiện được các yêu cầu trên doanh nghiệp phải tăng cường công tác quản lý kinh tế mà trọng tâm là chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp, đó là chỉ tiêu rất quan trọng mà các nhà quản lý kinh tế luôn quan tâm, vì nó phản ánh chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản xuất xây lắp do Kế Toán cung cấp những nhà quản lý doanh nghiệp nắm được chi phí sản xuất và giá thành thực tế của từng công trình, hạng mục công trình cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phân tích, đánh giá thực hiện các định mức chi phí, dự toán chi phí, tình hình sử dụng tài sản vật tư, lao động, vốn, tình hình thực hiện giá thành để nhà quả lý đưa ra những quyết định đúng đắn cho doanh nghiệp của mình .
Yêu cầu chủ yếu đặt ra cho công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là:
- Xác định đối tượng chi phí sản xuất, đối tượng và phương pháp tính giá thành có tính khoa học nhất.
- Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định và bằng phương pháp đã chọn, cung cấp kịp thời thông tin, số liệu tổng hợp về các khoản mục chi phí, những yếu tố chi phí quy định và xác định đúng đắn chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ.
- Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính giá thành sản phẩm xây lắp theo đúng các khoản mục quy định và kỳ tính giá đã xác định
- Định kỳ cung cấp các báo cáo về chi phí sản xuất và tính giá thành cho lãnh đạo doanh nghiệp, tiến hành phân tích tình hình thực hiện các định mức chi phí, dự toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và các kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, phát hiện kịp thời khả năng tiềm tàng, đề xuất các biện pháp để không ngừng tiết kiệm và hạ giá thành sản phảm của doanh nghiệp.
1.2 - những vấn đề chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
1.2.1 Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
1.2.1.1 Chi phí sản xuất
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp là quá trình biến đổi một cách có ý thức, có mục đích các yếu tố đầu vào, sản xuất tạo thành các công trình lao vụ nhất định.
Cũng như các doanh nghiệp khác, để tiến hành các hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm thì doanh nghiệp xây lắp cần phải có được 3 yếu tố cơ bản đó là:
- Tư liệu lao động: nhà xưởng, máy móc thiết bị và những tài sản cố định khác
- Đối tượng lao động như: nguyên vật liệu…..
- Lao động của con người
Xong sự tham gia của các yếu tố này vào quá trình sản xuất có khác nhau dẫn đến sự hình thành những chi phí tương ứng.
- Chi phí về tư liệu lao động như chi phí về khấu hao các loại tài sản cố định
- Chi phí về các loại đối tượng lao động như chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu….
- Chi phí về lao động như: tiền công tiền lương, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí trên đều được biểu hiện bằng tiền, trong đó chi phí về tiền công là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống, còn chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về vật liệu ngyên liệu, nhiên liệu….là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá.
Như vậy, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành sản xuất thi công trong một thời kỳ nhất định.
Một Doanh nghiệp sản xuất ngoài những hoạt động có liên quan đến sản xuất ra sản phẩm hay lao vụ, còn có những hoạt động kinh doanh, hoạt động khác không có tính chất sản xuất như hoạt động bán hàng, hoạt động quản lý…..chỉ những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất, mới được coi là chi phí sản xuất.
Chi phí của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp, nhưng để phục vụ cho viêc quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán, ập hợp theo từng thời kỳ, hàng tháng, hàng quý, hàng năm sao cho phù hợp với kỳ báo cáo.
Về mặt lượng thì chi phí sản xuất phụ thuộc vào hai nhân tố:
- Khối lượng lao động, nhiên liệu sản xuất đã bỏ ra trong quá trình sản xuất trong một thời kỳ nhất định.
- Tiền lương của một đơn vị lao động đã hao phí và giá cả tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất .
1.2.1.2 Phân loai chi phí sản xuất.
Trong doanh nghiệp xây lắp chi phí bao gồm có nhiều loại, nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất thi công cũng khác nhau, việc quản lý sản xuất, Tài chính, quản lý về chi phí sản xuất không thể chỉ dựa vào số liệu phản ánh tổng hợp chi phí sản xuất mà còn phải căn cứ vào số liệu cụ thể của từng loại chi phí riêng biệt để phục vụ cho yêu cầu kiểm tra và phân tích toàn bộ các chi phí sản xuất hoặc từng yếu tố chi phí ban đầu của chúng, theo từng công trình, hạng mục công trình từng nơi phát sinh chi phí và chịu chi phí. Vì vậy phân loại chi phí sản xuất là một yêu cầu tất yếu để hạch toán chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Phân loại chi phí sản xuất có tính khoa học, thống nhất có tính chất quan trọng trong việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp, hơn nưã giúp kiển tra, phân ttích chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
* Phân loại chi phí sản xuất được phân loại theo các cách sau:
- Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung tính chất kinh tế của chi phí.
Căn cứ vào nội dung và tính chất kinh tế của các chi phí để sắp xếp các chi phí có cùng tính chất, nội dung kinh tế vào một yếu tố ở đầu, dùng vào mục đích gì, tác dụng của chúng ra làm sao. Vì thế cách phân loại này còn gọi là phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, và toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ được được chia thành các yếu tố chi phí sau:
+ Chi phí nguyên liệu, vật liệu; bao gồm toàn bộ các chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiêt bị xây dựng cơ bản mà doanh nghiệp đã sử dụng cho các hoạt động sản xuất trong kỳ.
+ Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ tiền công phải trả, tiền trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn của công nhân và nhân viên hoạt động trong doanh nghiệp.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: đây là hao phí về thiết bị lao động, là toàn bộ số tiền trích khấu hao TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là số tiền trả về các loại dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp như: Chi phí thuê máy, tiền điện, tiền nước.
+ Chi phí khác bàng tiền: Là toàn bộ chi phí phát sinh trong hoạt động SXKD ngoài bốn yếu tố chi phí kể trên.
- Phân loại chi phí theo nội dung tính chất kinh tế của chi phí có tác dụng lớn đối với công tác quản lý và công tác kế toán thể hiển những vấn đề sau:
+ Phân loại chi phí sản xuất thêo yếu tố cho biết kết cấu tỷ trọng của từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, là căn cứ để lập bảng thuyết minh báo cáo tài chinh ( phần chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố ) phục vụ cho yêu cầu quản trị của doanh nghiệp.
+ Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí và lập dự toán chi phí sản xuất cho kỳ sau.
+ Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố là cơ sở để tập hợp chi phí theo yếu tố, lập báo cáo các chi phí sản xuất theo yếu tố, cung cấp tài liệu để tham khảo, lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vât tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau.
– Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí.
Mỗi yếu tố sản xuất phát sinh trong kỳ đều có công dụng và mục đích nhất định với hoạt động sản xuất, theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí trong sản xuất để chia ra các khoản mục các chi phi khác nhau, mỗi khoản mục chi phí bao gồm những chi phí có cùng mục đích, công dụng, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế nó như thế nào, những chi phí phát sinh trong kỳ được chia thành các khoản mục sau:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng vào mục đích trực tiếp sản xuất sản phẩm, không tính vào khoản mục này những chi phí nguyên vật liệu sử dụng vào mục đích sản xuất chung, và những hoạt động ngoài sản xuất.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền công, tiền trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp sản xuất, không trích vào khoản mục này số tiền công và trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của nhân viên sản xuất chung, nhân viên quẩn lý và nhân viên bán hàng.
+ Chi phí sử dụng máy thi công: Là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng xe, máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động thi công xây lắp ở những doanh nghiệp có công trình áp dụng phương pháp thi công hỗn hợp bao gồm: chi phí nhân công như lương, tiền công, phụ cấp trả cho công nhân trực tiếp điều khiển và phục vụ xe, máy thi công; chi phí vật liệu như vật liệu, nhiên liệu; chi phí dụng cụ; chi phí khấu hao máy thi công và các chi phí khác.
+ Chi phí sản xuất chung: Là chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất chung tại bộ phận sản xuất bao gồm: Các khoản trích BHXH, KPCĐ theo lương của công nhân trực tiếp thi công và phục vụ thi công lắp máy, công nhân trực tiếp điều khiển xe, máy thi công, các chi phí dùng vào việc quản lý phục vụ chung cho bộ phận quản lý và bộ phận sản xuất thi công như tiền lương, phụ cấp và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý đội, chi phí vật liệu ,dụng cụ chi phí khấu hao TSCĐ sử dụng phục vụ quản lý chung ở đội, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác.
Ngoài các khoản mục chi phí sản xuất nêu trên còn có các chi phí như :
+ Chi phí nhân viên ( phân xưởng, đội, trại sản xuất ): Phản ánh các chi phí liên quan và phải trả cho nhân viên như: tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, trích bảo hiểm….cho nhân viên quản lý, nhân viên kế toán, thống kê, thủ kho, công nhân vận chuyển, sửa chữa phân xưởng (đội trại sản xuất).
+ Chi phí vật liệu: Phản ánh chi phí vật liệu sử dụng chung như vật liệu dùng để sửa chữa, bảo dưỡng lại tài sản cố định, vật liệu văn phòng và những vật liệu dùng cho nhu cầu quản lý chung ở phân xưởng tổ đội sản xuất.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất : Phản ánh chi phí về dụng cụ công cụ dùng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng, tổ đội sản xuất như khuôn mẫu dụng cụ giá lắp, dụng cụ cầm tay, ván khuôn, dụng cụ bảo hộ lao động…..
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định hữư hình, tài sản cố định thuê tài chính sử dụng ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất như khấu hao máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải, nhà xưởng, cây lâu năm, súc vật làm việc…..
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh những chi phí về lao vụ, dịch vụ mua từ bên ngoài để phục vụ cho hoạt động sản xuất chung ở phân xưởng, đội sản xuất như chi phí về điện nước, khí nén, điện thoại, chi phí sửa chữa thuê ngoài….
+ Chi phí bằng tiền khác: Phản ánh những chi phí bằng tiền ngoài những chi phí trên phục vụ cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng, tổ đội sản xuất.
Cách phân loại này có tác dụng cho việc quản lý chi phí theo định mức, là cơ sở để kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo khoản mục, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và định mức cho kỳ sau.
Ngoài hai cách phân loại trên còn có các cách phân loại chi phí khác như:
- Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và quy mô sản xuất, theo cách phân loại này chi phí sản xuất được chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi.
- Phân loại chi phí thành chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
- Phân loại chi phí thời kỳ và chi phí sản phẩm……
Như vậy mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng, phục vụ cho từng đối tượng quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể, chúng luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý hiệu quả nhất về toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
1.2.2 Khái niệm và các loại giá thành trong doanh nghiệp xây dựng:
1.2.2.1 Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp :
Để lắp đặt được một công trình hay hoàn thành một lao vụ … thì Công Ty phải đầu tư vào quá trình sản xuất, thi công một lượng chi phí nhất định. Những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình thi công, đã tham gia cấu thành nên giá thành công tác xây lắp và hoàn thành quá trình xây lắp đó.
Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí bao gồm chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí trực tiếp khác ….tính cho công trình, hạng mục công trình hay khối lượng hoàn thành cho đến giai đoạn quy ước đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao và đươc chấp nhận thanh toán. Do vậy mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp sau khi hoàn thành đều có một giá thành riêng.
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản vật tư lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng như những giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được mục đích sản xuất, được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí tiết kiệm và hạ giá thành. Giá thành sản phẩm còn là cơ sở để tính toán xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Bản chất của giá thành sản phẩm là biểu hiện sự di chuyển của các yếu tố chi phí cho từng sản phẩm công tác lao vụ đã hoàn thành trong kỳ, giá thành có hai chức năng chủ yếu là: lập giá và bù đắp chi phí, toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra để sản xuất sản phẩm, công tác lao vụ dịch vụ đã hoàn thành được bù đắp chi phí bằng chính giá bán do tiêu thụ các sản phẩm, công tác lao vụ dịch vụ hoàn thành đó, mới đầu chỉ để tái sản xuất giản đơn và sau đó là tái sản xuất mở rộng để thu lợi nhuận.
Giá bán sản phẩm = Giá thành tiêu thụ + Thuế + Lãi
Để xác định giá bán sản phẩm, công tác lao vụ dịch vụ hoàn thành phải căn cứ vào chính giá thành của chính sản phẩm, công tác lao vụ dịch vụ đó, thông qua giá bán mà xác định được mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả mà chi phí đó đã bỏ ra.
Khác với các doanh nghiệp công nghiệp, người ta có thể tính toán giá thành cho một loại sản phẩm sản xuất ra trong kỳ và giá thành đơn vị của sản phẩm sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để xác định giá bán. ở doanh nghiệp xây lắp giá thành sản phẩm xây lắp mang tính chất cá biệt cho mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp sau khi đã hoàn thành đều có một giá thành riêng. Mặt khác khi nhận thầu một công trình xây lắp thì giá bán ( giá nhận thầu) đã có ngay trước khi thi công công trình, nghĩa là giá bán có trước khi xác định được giá thành thực tế của sản phảm xây lắp đó. Do đó giá thành thực tế của một công trình hay khối lượng xây lắp hoàn thành chỉ quyết định đến lãi hay lỗ của doanh nghiệp do thi công công trình đó mà thôi.
Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, để đa dạng hóa hoạt động sản xuất kinh doanh dưới sự cho phép của Nhà Nước một số doanh nghiệp xây lắp đã linh hoạt chủ động xâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 437.doc