Chuyên đề Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam và một số giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới

Sự phát triển vượt bậc của hoạt động xuất khẩu trong những năm vừa qua có thể coi là một trong những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới nền kinh tế của Việt Nam.

Nếu như năm 1976, năm đầu tiên sau giải phóng, kim ngạch xuất khẩu mới đạt xấp xỉ 200 triệu USD, năm 1986 là 789 triệu USD thì tới năm 1996 kim ngạch đã tăng lên 7.255 triệu USD, gấp hơn 36 lần kim ngạch của năm 1976 và gần 10 lần kim ngạch của năm 1986. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đã đạt trên 11 tỷ USD.

Từ chỗ chỉ đơn thuần xuất khẩu một vài loại nguyên liệu thô chưa qua chế biến như than đá, thiếc, gỗ tròn,.và một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ đơn giản, chủng loại hàng hoá tới nay đã đa dạng hơn, trong đó có những mặt hàng đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao vào hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới như gạo và cà phê. Cơ cấu hàng xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng đã có những thay đổi tích cực. Tỷ trọng hàng đã qua chế biến tăng khá nhanh, thị trường xuất khẩu được mở rộng và đa dạng hơn. Đặc biệt, trong nhiều năm liền, xuất khẩu đã trở thành động lực chính của tăng trưởng GDP và góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa.

Trên đà phát triển của hoạt động xuất khẩu nói chung, hoạt động xuất khẩu dược phẩm cũng đã và đang khẳng định được vị trí của mình. Từ khi chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, không chỉ tiêu dùng thuốc tăng nhanh mà xuất khẩu thuốc cũng khá phát triển đem lại nhiều tín hiệu khả quan cho dược phẩm Việt Nam. Tuy nhiên, xuất khẩu dược phẩm của ta còn khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực và khoảng cách này còn xa hơn nếu không có giải pháp để mang lại những biến chuyển cơ bản, mang tính động lực cho hoạt động xuất khẩu.

Xuất phát từ những yêu cầu trên, tôi xin chọn đề tài: “Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam và một số giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới” để nghiên cứu.

Ngoài lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày trong 3 chương:

Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.

Chương II: Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam trong giai đoạn 1990-2000.

Chương III: Phương hướng và một số giải pháp nhằm hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu trong những năm tới.

 

doc30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam và một số giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sự phát triển vượt bậc của hoạt động xuất khẩu trong những năm vừa qua có thể coi là một trong những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới nền kinh tế của Việt Nam. Nếu như năm 1976, năm đầu tiên sau giải phóng, kim ngạch xuất khẩu mới đạt xấp xỉ 200 triệu USD, năm 1986 là 789 triệu USD thì tới năm 1996 kim ngạch đã tăng lên 7.255 triệu USD, gấp hơn 36 lần kim ngạch của năm 1976 và gần 10 lần kim ngạch của năm 1986. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đã đạt trên 11 tỷ USD. Từ chỗ chỉ đơn thuần xuất khẩu một vài loại nguyên liệu thô chưa qua chế biến như than đá, thiếc, gỗ tròn,..và một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ đơn giản, chủng loại hàng hoá tới nay đã đa dạng hơn, trong đó có những mặt hàng đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao vào hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới như gạo và cà phê. Cơ cấu hàng xuất khẩu và cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng đã có những thay đổi tích cực. Tỷ trọng hàng đã qua chế biến tăng khá nhanh, thị trường xuất khẩu được mở rộng và đa dạng hơn. Đặc biệt, trong nhiều năm liền, xuất khẩu đã trở thành động lực chính của tăng trưởng GDP và góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Trên đà phát triển của hoạt động xuất khẩu nói chung, hoạt động xuất khẩu dược phẩm cũng đã và đang khẳng định được vị trí của mình. Từ khi chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, không chỉ tiêu dùng thuốc tăng nhanh mà xuất khẩu thuốc cũng khá phát triển đem lại nhiều tín hiệu khả quan cho dược phẩm Việt Nam. Tuy nhiên, xuất khẩu dược phẩm của ta còn khá khiêm tốn so với các nước trong khu vực và khoảng cách này còn xa hơn nếu không có giải pháp để mang lại những biến chuyển cơ bản, mang tính động lực cho hoạt động xuất khẩu. Xuất phát từ những yêu cầu trên, tôi xin chọn đề tài: “Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam và một số giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới” để nghiên cứu. Ngoài lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày trong 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu. Chương II: Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam trong giai đoạn 1990-2000. Chương III: Phương hướng và một số giải pháp nhằm hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu trong những năm tới. Chương I Những vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu I. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 1.Khái niệm Xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương. Hoạt động xuất nhập khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều nhiệm vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất nhập khẩu, thương nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Mỗi khâu mỗi nhiệm vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ, kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu Đối với người tham gia hoạt động xuất khẩu trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong nước, giá cả, xu hướng biến động của nó. Những điều đó phải trở thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu để nắm bắt được những cơ hội trong kinh doanh thương mại quốc tế. 2.1 Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới, lựa chọn bạn hàng giao dịch Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông, ở đâu có sản xuất và lưu thông ở đó có thị trường. Ta có thể hiểu thị trường theo hai giác độ: Thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá-tiền tệ. Theo cách khác, thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và khối lượng cung có khả năng đáp ứng theo mỗi mức giá nhất định. Để nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường nhằm ứng xử kịp thời, mỗi nhà kinh doanh nhất thiết phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các qua hệ kinh tế, đặc biệt trong công tác xuất khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp. Nghiên cứu và nắm vững đặc điểm biến động của thị trường và giá cả hàng hoá trên thế giới là tiền đề quan trọng đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu quả cao nhất. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nghiên cứu thị trường phải trả lời các câu hỏi: xuất khẩu cái gì, dung lượng thị trường đó ra sao, sự biến động của hàng hoá trên thị trường như thế nào, thương nhân trong giao dịch là ai, phương thức giao dịch như thế nào, chiến lược kinh doanh cho từng giai đoạn để đạt được mục tiêu đề ra. +Nhận biết mặt hàng xuất khẩu. Việc nhận biết mặt hàng xuất khẩu, trước tiên phải dựa vào nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về quy cách, chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và các thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó, xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thế giới. Về khía cạnh thương phẩm, phải hiểu rõ giá trị công dụng, các đặc tính, quy cách phẩm chất, mẫu mã. Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, một nhân tố quan trọng là phải tính toán được tỷ suất ngoại tệ hàng xuất nhập khẩu. Trong trường hợp xuất khẩu, tỷ suất ngoại tệ là số lượng bản tệ phải chi ra để có thể thu về 1 đồng ngoại tệ. Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ giá hối đoái thì việc xuất khẩu có hiệu quả. Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không chỉ dựa vào những tính toán hay ước tính, những biểu hiện cụ thể của hàng hoá, mà còn phải dựa vào những kinh nghiệm của người ngoài thị trường để dự đoán được các xu hướng biến động trong thị trường nước ngoài cũng như trong nước, khả năng thương lượng để đạt được các điều kiện mua bán có ưu thế hơn. +Lựa chọn đối tượng giao dịch. Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người hoặc tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá hay các loại dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay hợp tác kỹ thuật liên quan tới việc cung cấp hàng hoá. Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế, song nó phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người làm công tác giao dịch. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong kinh doanh xuất khẩu là hết sức cần thiết. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế có hiệu quả cao nhất. 2.2 Nghiên cứu giá cả hàng hoá. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời thể hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế. Giá cả quốc tế luôn gắn liền với thị trường và là một nhân tố cấu thành thị trường. Giá cả thị trường luôn biến động và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường lại càng trở nên phức tạp do việc mua bán giữa các khu vực khác nhau diễn ra trong một thời gian dài, hàng vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế quan khác nhau. Do vậy, để đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh trên thị trường quốc tế đòi hỏi các nhà kinh doanh phải nắm được giá cả và xu hướng vận động của giá cả trên thị trường quốc tế. Đồng thời phải có các biện pháp để tính toán giá cả một cách chính xác và khoa học để giá cả thực sự trở thành một đòn bẩy trong buôn bán quốc tế. Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với mỗi loại hàng hoá trên thị trường, giá đó phải là giá của những giao dịch thông thường không kèm theo bất kỳ một điều kiện thương mại đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Trong thực tế, giá quốc tế của mỗi loại hàng hoá thường biến động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau nên việc dự đoán và nắm bắt giá cả, xu hướng vận động của giá cả là một công việc rất khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều thông tin. Để có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả quốc tế của hàng hoá trước hết phải căn cứ vào kết quả nghiên cứu và dự đoán về tình hình thị trường của hàng hoá đó, đánh giá đúng các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả và xu hướng vận động của giá cả hàng hoá. 2.3 Thanh toán trong kinh doanh thương mại quốc tế Thanh toán quốc tế là một khâu rất quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực xuất khẩu một phần lớn nhờ vào chất lượng của khâu thanh toán. Thanh toán là bước đảm bảo cho người xuất khẩu được thu tiền về và người nhập khẩu được nhận hàng hoá. Thanh toán quốc tế trong thương mại quốc tế được hiểu là việc chi trả những khoản tiền, tín dụng có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá được thoả thuận trong các quy định của các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, việc thanh toán phải chú ý đến các vấn đề sau: -Tỷ giá hối đoái. -Tiền tệ trong thanh toán quốc tế. -Thời hạn thanh toán. -Các phương thức thanh toán. -Các điều kiện đảm bảo hối đoái. Có nhiều loại tiền tệ được sử dụng trong thanh toán quốc tế, cần phải biết cách lựa chọn đồng tiền thanh toán, phương thức thanh toán và các điều kiện thanh toán sao cho có lợi nhất, tránh những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. II. Tầm quan trọng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ. 1.Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế -Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiến tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: liên doanh đầu tư với nước ngoài, vay nợ, viện trợ, tài trợ, thu từ hoạt động dịch vụ, du lịch, xuất khẩu sức lao động, ....Trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ,.. cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. -Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại. Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta là phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau: +Xuất khẩu những sản phẩm của nước ta ra nước ngoài. +Xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà các nước khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. +Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi. +Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước. +Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiến tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta. +Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường. +Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. -Xuất khẩu tạo thêm công ăn, việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. -Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho kinh tế nước ta gắn chặt với phần công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế,....Đến lượt nó chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 2. Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu -Phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có. -Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước như đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật-công nghệ chất xám theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh. -Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu đê tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. -Tạo ra những mặt hàng và nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. Chương II Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam trong giai đoạn 1990- 2000 I.Thực trạng hoạt động xuất khẩu 1.Về quy mô và tốc độ tăng trưởng Theo số liệu thống kê cho thấy, hiện nay cả nước có 47 doanh nghiệp đang hoạt động xuất nhập khẩu thuốc trực tiếp, trong đó: + Các doanh nghiệp được xuất nhập khẩu nguyên liệu và thành phẩm:31 doanh nghiệp. + Các doanh nghiệp chỉ nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất của chính doanh nghiệp mình và xuất khẩu thành phẩm: 8 doanh nghiệp. + Các liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép nhập khẩu nguyên liệu sản xuất và xuất khẩu thành phẩm: 8 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu chủ yếu tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội do ở đây có các doanh nghiệp TW cũng như thành phố đóng, điều kiện cơ sở, vốn, cán bộ cũng như quan hệ với bên ngoài thuận lợi hơn. Như vậy là con số các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu dược phẩm của Việt Nam còn quá nhỏ bé so với khả năng có thể. Kim ngạch xuất khẩu thuốc còn thấp thể hiện qua bảng 1. Bảng 1: Giá trị xuất khẩu thuốc qua các năm Năm Giá trị xuất khẩu (USD) Tỷ lệ tăng trưởng 1990 4.987.330 1991 4.723.852 -5,30% 1992 5.309.439 12,40% 1993 5.415.201 2,00% 1994 5.816.332 7,41% 1995 13.695.680 135,00% 1996 11.997.000 -12,40% 1997 11.627.000 -3,08% 1998 17.050.930 1,46% 1999 11.428.000 -3,30% (Nguồn: Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu thuốc của Việt Nam - Cục quản lý dược) Mặc dù giá trị xuất khẩu có tăng dần qua các năm, song tốc độ tăng còn quá chậm, thậm chí còn giảm so với năm trước. 2. Cơ cấu Thuốc, nguyên liệu và thị trường xuất khẩu Dược phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong những năm qua là tinh dầu, thuốc đông dược và một số thuốc thông thường. Như vậy, danh mục mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn quá hạn chế, nghèo nàn, không đa dạng phong phú. Việt Nam chưa tận dụng được tối đa tiềm lực trong nước. Bảng 2 Cơ cấu một số loại thuốc, nguyên liệu xuất khẩu qua các năm (USD) Năm Loại 1995 1996 1997 1998 1999 Thuốc TT 2.000.000 2.500.000 3.000.000 5.000.000 1.500.000 Thuốc cổ truyền 1.000.000 1.500.000 1.000.000 1.000.000 1.500.000 Rượi bổ, trà 3.000.000 3.000.000 3.000.000 3.500.000 3.000.000 Tinh dầu 5.000.000 3.000.000 3.500.000 6.000.000 3.500.000 Nguyên liệu 2.000.000 1.000.000 1.000.000 1.500.000 1.500.000 Thị trường xuất khẩu của Việt Nam còn hạn chế, tập trung chủ yếu ở một số nước Đông Âu, Cuba, Lào,Campuchia,....Đồng thời khả năng đáp ứng cho các thị trường này cũng còn quá nhỏ bé. Các doanh nghiệp dược của Việt Nam chủ yếu chỉ mới xuất khẩu tiểu ngạch, chưa có những sản phẩm mũi nhọn và hợp đồng ổn định với các công ty nước ngoài. II. Những khó khăn và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu dược phẩm. 1.Khó khăn. - Sự phát triển của thương mại quốc tế, tiến trình hội nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế, toàn cầu hoá và khu vực hoá cũng đặt ra nhiều thách thức đôi với các nước đang phát triển. Bởi vì tự do hoá thương mại sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, không những giữa sản phẩm với sản phẩm mà còn giữa công ty với công ty do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia (mở cửa cho công ty nước ngoài vào kinh doanh trên lãnh thổ nước mình). Toàn cầu hoá sẽ dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các nước đang phát triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ chế quản lý. Nghị định của Chính phủ số 89/CP ban hành ngày 15/12/1995 về việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá từng chuyến đánh dấu một thay đổi quan trọng trong công tác quản lý xuất nhập khẩu. Hàng năm Thủ tướng Chính phủ có quyết định về điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước, tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với yêu cầu cấp bách về công tác cải cách hành chính. Căn cứ quy định của Thủ tướng Chính phủ và thông tư hướng dẫn của Bộ Thương mại, các Bộ quản lý chuyên ngành đề ra quy định cụ thể cho ngành mình. Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 242/1999/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 về điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2000, tại điều 9 quy định: “Giao các Bộ, ngành hữu quan sau khi thống nhất với Bộ Thương mại, công bố danh mục và hướng dẫn việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thuộc danh mục hàng quản lý chuyên ngành theo nguyên tắc: chỉ quy định các tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng sử dụng, điều kiện được xuất khẩu, nhập khẩu để doanh nghiệp có cơ sở làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu tại hải quan cửa khẩu, không cấp giấy phép hoặc duyệt mặt hàng, số lượng, trị giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu”. Do tính chất đặc thù của loại hàng hoá này, Bộ Y tế đã có trao đổi với Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan và xin ý kiến Chính phủ duy trì một số quy định về quản lý, cụ thể đã ban hành Thông tư 07/2000/TT-BYT. Thông tư 07/2000/TT-BYT đánh dấu một bước phát triển trong công tác quản lý, tạo thông thoáng cho doanh nghiệp, đồng thời đi sâu vào quản lý chất lượng và khuyến khích việc đăng ký thuốc lưu hành tại Việt Nam, quy định mở rộng đối tượng tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, kinh nghiệm quản lý và kinh nghiệm hoạt động thương mại quốc tế trong lĩnh vực dược của Việt Nam còn quá ít ỏi, các doanh nghiệp mới chỉ tiếp cận thương mại quốc tế khoảng 10 năm nay, thuốc trong nước chưa đủ cạnh tranh với thuốc nước ngoài. - Chính sách quản lý sản xuất, xuất, nhập khẩu còn nặng về các biện pháp hành chính , chưa có điều kiện triển khai các giải pháp kỹ thuật về kiểm tra chất lượng một cách tối ưu. Các thủ tục về đăng ký nhãn mác sản phẩm còn quá rườm rà, thiếu tính đồng bộ từ trên xuống dưới. - Sự khác nhau và không hài hoà giữa hệ thống quy chế Dược của các nước: +Quy định về đăng ký, xuất khẩu, nhập khẩu thuốc khác nhau giữa các nước. Danh mục thuốc, thực phẩm, mỹ phẩm và các sản phẩm được coi như thuốc của các nước chưa thống nhất. + Thiếu thông tin và mất nhiều thời gian để liên hệ với Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép sản xuất, xuất nhập khẩu thuốc của một số nước khi cần thẩm tra những vấn đề cụ thể. + Những quy định về quản lý khác nhau giữa các nước như: danh mục, hàm lượng thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần,.... 2.Tồn tại. 2.1. Về phía cơ quan quản lý. Bối cảnh bên ngoài và hoàn cảnh bên trong đang thay đổi với tốc độ nhanh. Bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều cố gắng để bắt kịp các thay đổi nhưng nhìn chung thì hoạt động của toàn hệ thống vẫn còn khá thụ động và trì trệ. Xuất khẩu dược phẩm vì thế chưa có được những định hướng rõ ràng và dài hạn ở tầm vĩ mô. Quản lý xuất nhập khẩu sản phẩm dược vẫn do chính phủ ban hành theo từng năm chưa trở thành một quy định nhất quán, ổn định trong cả thời kỳ dài nên vừa khó cho doanh nghiệp vừa khó cho cơ quan quản lý. Sự liên kết giữa các định chế quản lý còn khá lỏng lẻo, chưa tạo thành một thể thống nhất với chuyển động có hướng đích. Công tác quy hoạch, kế hoạch, thu thập và phổ cập thông tin, xúc tiến thương mại còn có những bất cập nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu nói chung và dược phẩm nói riêng. - Hệ thống văn bản pháp quy chưa đồng bộ, nhiều văn bản ban hành trước đây chưa được thay thế, bổ sung, khó vận dụng. - Quyết định 547/TTg có quy định nhiệm vụ của Cục Quản lý Dược về thanh tra. Tuy nhiên do có sự chồng chéo trong các văn bản quy định nên đến nay chức năng này chưa thể triển khai được. - Kiểm tra hậu mãi đối với ngành dược hiện vẫn là điều khó khăn vì hệ thống quản lý dược chưa hoàn thiện, đặc biệt ở tuyến tỉnh do thiếu cán bộ. 2.2. Về phía doanh nghiệp Phần lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam đều có sức cạnh tranh yếu, thậm chí rất yếu trên thị trường thế giới. Giá thành cao, chất lượng không ổn định, mẫu mã chủng loại nghèo nàn, bao bì kém hấp dẫn, khả năng giao hàng không chắc chắn, dịch vụ hậu mãi kém,...là những nét đặc trưng phổ biến của rất nhiều chủng loại hàng hoá xuất khẩu. Sản phẩm dược mặc dù có những đặc thù riêng song vẫn không tránh khỏi những tồn tại trên. Khi được hỏi về nguyên nhân của tình trạng này, thì hầu như các doanh nghiệp đổ lỗi nhiều cho “thiếu vốn” và “thiết bị lạc hậu”. Hai yếu tố này tác động qua lại và tạo thành vòng xoáy khiến doanh nghiệp dù “rất mong muốn nhưng không thể thoát ra được”. Vốn và thiết bị đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm nhưng bên cạnh vốn và thiết bị còn rất nhiều yếu tố khác cũng tác động vào sức cạnh tranh của sản phẩm. Những yếu tố này có thể là yếu tố vĩ mô (như lãi suất, thuế suất,....) nhưng cũng có thể là yếu tố vi mô (như quy trình sản xuất và khả năng quản lý của từng doanh nghiệp,....). Nếu có thể cải tổ những yếu tố này thì vấn đề vốn và thiết bị nhiều khi lại trở thành vấn đề thứ yếu trong việc nâng cao sức cạnh tranh. Một tài liệu nghiên cứu gần đây chỉ ra rất rõ rằng “ Hiện nay ở Việt Nam đang tồn tại xu hướng cạnh tranh dựa trên mức lương thấp và các nguồn tài nguyên thiên nhiên”. Đây là nhận xét hoàn toàn chính xác. Có thể nói phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang theo đuổi một chiến lược cạnh tranh thụ động là dựa vào các “lợi thế vốn có”. Các yếu tố như lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí độc quyền, trợ cấp riêng rẽ, lãi suất ưu đãi, ... được nhiều doanh nghiệp coi như là cơ sở để tồn tại và phát triển. Rất ít doanh nghiệp dám theo đuổi một chiến lược chủ động mà điểm cót lõi của nó là tạo ra một vị thế cạnh tranh khác biệt, mang tính dài hạn, dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân trong ngành và khả năng tạo ra các sản phẩm độc đáo hơn cũng như quy trình sản xuất hợp lý hơn. Hơn nữa do đặc thù của ngành, một số doanh nghiệp chưa nghiên cứu kỹ quy định về xuất nhập khẩu thuốc và các quy chế chuyên môn dẫn đến việc lập đơn hàng có nhiều sai sót gây mất thời gian cho chính doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Một số doanh nghiệp cả trong nước và nước ngoài vi phạm về lập đơn hàng dẫn đến vi phạm về những quy định lưu thông phân phối thuốc. Hiện nay xuất hiện tình trạng vi phạm về chất lượng thuốc. Bộ phận đảm bảo chất lượng thuốc của một số doanh nghiệp hoạt động chưa thực sự có hiệu quả. Vấn đề chất lượng thuốc phải được quan tâm ngay từ khâu lựa chọn nguyên liệu đầu vào. Nếu nhà sản xuất không quan tâm đến các điều kiện kỹ thuật, nguyên liệu đầu vào thì có thể sẽ sản xuất ra những loại thuốc kém chất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc61009.doc
Tài liệu liên quan