Chuyên đề Thực trạng và triển vọng thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định CNH – HĐH nền kinh tế nước ta vừa là mục tiêu vừa là chiến lược phát triển đất nươc trong những năm tới, từ chiến lược đó Đảng và Nhà nước đã chủ trương khơi dậy, phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh CNH – HĐH. Để thực hiện thành công cần phải có chiến lược thu hút vốn đầu tư phát triển, một trong những biện pháp để đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư từ trong và ngoài nước là việc thành lập các KCN. Thực tế năm qua đây là một nhân tố quan trọng góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước.

Trong bối cảnh đó, cuối năm 1996, Chính phủ đã quyết định chọn Dung Quất làm KCN lọc hoá dầu đầu tiên của cả nước, khu tập trung các ngành công nghiệp quy mô lớn, là trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm miền trung trong chiến lược phát triển cân đối cùng lãnh thổ. Thời gian từ năm 1996 – 2001 chưa phải là dài nhưng cũng đủ để cho chúng ta thấy những thành công cũng như không ít những khó khăn thách thức đối với KCN Dung Quất. Do đó cần có sự nghiên cứu phân tích để rút ra những bài học thành công và thất bại, từ đó đánh giá được triển vọng thu hút đầu tư vào KCN Dung Quất cũng như những giải pháp cần phải thực hiện trong giai đoạn tăng tốc của Dung Quất. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng và triển vọng thu hút đầu tư vào KCN Dung Quất ”.

Chuyên đề gồm có ba phần chính:

Chương I: Những vấn đề lý luận chung về thu hút đầu tư vào KCN.

Chương II: Thực trạng và triển vọng thu hút đầu tư vào KCN Dung Quất.

Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khẳ năng thu hút vốn đầu tư vào KCN Dung Quất.

 

doc73 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Thực trạng và triển vọng thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu. đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định CNH – HĐH nền kinh tế nước ta vừa là mục tiêu vừa là chiến lược phát triển đất nươc trong những năm tới, từ chiến lược đó Đảng và Nhà nước đã chủ trương khơi dậy, phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh CNH – HĐH. Để thực hiện thành công cần phải có chiến lược thu hút vốn đầu tư phát triển, một trong những biện pháp để đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư từ trong và ngoài nước là việc thành lập các KCN. Thực tế năm qua đây là một nhân tố quan trọng góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó, cuối năm 1996, Chính phủ đã quyết định chọn Dung Quất làm KCN lọc hoá dầu đầu tiên của cả nước, khu tập trung các ngành công nghiệp quy mô lớn, là trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm miền trung trong chiến lược phát triển cân đối cùng lãnh thổ. Thời gian từ năm 1996 – 2001 chưa phải là dài nhưng cũng đủ để cho chúng ta thấy những thành công cũng như không ít những khó khăn thách thức đối với KCN Dung Quất. Do đó cần có sự nghiên cứu phân tích để rút ra những bài học thành công và thất bại, từ đó đánh giá được triển vọng thu hút đầu tư vào KCN Dung Quất cũng như những giải pháp cần phải thực hiện trong giai đoạn tăng tốc của Dung Quất. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng và triển vọng thu hút đầu tư vào KCN Dung Quất ”. Chuyên đề gồm có ba phần chính: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về thu hút đầu tư vào KCN. Chương II: Thực trạng và triển vọng thu hút đầu tư vào KCN Dung Quất. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khẳ năng thu hút vốn đầu tư vào KCN Dung Quất. Chương I: Những vấn dề lý luận chung về thu hút đầu tư vào khu công nghiệp. I. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư. 1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển. 1.1. Khái niệm đầu tư. Thuật ngữ đầu tư nói chung có thể được hiểu đồng nghĩa với sự bỏ ra, sự hy sinh. Từ đó có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai. Theo định nghĩa này thì tất cả các hành động bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động như xây dựng nhà cửa, phân xưởng, về cơ sở vật chất, về nâng cao trình độ…trong tương lai lớn hơn những chi phí bỏ ra. Vì vậy tất cả các hành động đó được xem là đầu tư. Tuy nhiên đầu tư có thể được xem xét trên các góc độ khác nhau: - Xét trên góc độ tài chính: đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi dòng thu nhập nhằm hoàn vốn và sinh lời. - Trên góc độ tiêu dùng: đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu đựơc các mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. - Trên góc độ nền kinh tế: đầu tư là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác một tài sản) nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Theo định nghĩa này thì các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản cho nền kinh tế mà thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền và quyền sở hữu cố phần, hàng hoá từ người này sang người khác. giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm, của cổ đông bán cổ phần và người mua hàng. Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp. Các hoạt động chi tiêu để xây dựng nhà xưởng, phát hành chứng khoán để mở rộng sản xuất, học tập gắn liền với việc tạo ra tài sản mới mới một cách trực tiếp cho nền kinh tế nên được coi là đầu tư phát triển (hay đầu tư trên góc độ nền kinh tế). 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển. Hoạt động của đầu tư phát triển có đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư là: - Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. - Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. - Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế... - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm tháng có khi đến hàng trăm năm, hàng nghìn năm thậm chí là vĩnh cửu như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim tự tháp cổ Ai Cập, nhà thờ La Mã ở thành Rome, Vạn lý Trường Thành ở Trung Quốc...). Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển. - Các thành quả của đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng lên. Do đó, các điều kiện về địa hình tại đó ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. - Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. - Để đảm bảo cho công cuộc đầu tư đem lại hiệu qủa kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Thứ hai: Thời gian tiến hành một hoạt động đầu tư từ khi bắt đầu cho đến khi phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng thời gian vận hành để thu hồi vốn cũng kéo dài. Trong suốt thời gian đó tác động của các yếu tố tự nhiên xã hội là không nhỏ. Thứ ba: Công trình đầu tư của ngành dược liệu ở một vị trí cố định nên chịu sự tác động của các yếu tố tự nhiên và xã hội trong vùng. Việc lựa chọn địa điểm để xây dựng cơ sở vật chất là vô cùng quan trọng để có thể thi công xây dựng và lắp đặt máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ một cách an toàn cần phải quan tâm đến vấn đề địa chất. Ngoài ra, những vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tâp quán có thể ảnh hưởng tới việc hình thành một dự án đầu tư. Thứ tư: Do thời gian kéo dài và vốn đầu tư lớn nên đầu tư phát triển có thể gặp một số rủi ro sau: - Rủi ro về xây dựng và hoàn thành công trình. - Rủi ro về kỹ thuật vận hành. - Rủi ro về thị trường. 2. Bản chất các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia. Xuất phát từ bản chất và lợi ích do đầu tư mang lại, chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây: - Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trị để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho tổ chức, cá nhân đầu tư. Hoạt động đầu tư tài chính không trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế nhưng là một nguồn cung cấp vốn vô cùng quan trọng cho ĐTPT. Bởi vì, với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư đựơc luân chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra đầu tư. - Đầu tư thương mại: Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu được lợi nhuận do chênh lệch giữa giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương) mà chỉ làm tăng tài sản của chính nhà đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và người đầu tư, giữa người đầu tư và khách hàng của họ. Tuy niên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do ĐTPT tạo ra, từ đó thúc đẩy ĐTPT. - Đầu tư phát triển: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực cho sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác. là điều kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thít bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực. Thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. 3. Vai trò của đầu tư. 3.1. Đầu tư vừa có tác động đến tổng cung vừa có tác động đến tổng cầu. Tổng cung là toàn bộ khối lượng sản phẩm mà đơn vị sẽ sản xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với một mức giá nhất định. Tổng cầu là khối lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà đơn vị trong nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với một mức giá nhất định. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Theo WB đầu tư thường chiếm 24% - 28% trong tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Tác động của đầu tư đối với tổng cầu là ngắn hạn, do đầu tư có độ trễ nền khi vốn đầu tư, máy móc thiết bị, lao động bỏ ra để hình thành đầu tư nhưng chưa tạo ra thành quả thì tổng cung chưa kịp thay đổi còn tổng cầu lúc đó tăng lên. Về mặt cung: đầu tư sẽ tác động đến tổng cung dài hạn (khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng và năng lực mới đi vào hoạt động). Khi đó sản phẩm, hàng hoá tạo ra cho nền kinh tế tăng lên. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, tăng thu nhập, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 3.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cung và tổng cầu của nên kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của hoạt động đầu tư dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định kinh tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá hàng hoá có liên quan tăng đến mức độ nào đó dẫn đến lạm phát. Lạm phát sẽ làm cho sản xuất đình trệ, thâm hụt ngân sách, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn...Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển thu hút thêm lao động, giảm thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội. Tương tự như vậy khi đầu tư giảm cũng gây ra tác động hai mặt (theo chiều hướng ngược lại với tác động trên). Vì vậy các nhà hoạch định cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách phù hợp nhằm hạn chế tác động xấu và phát huy các tác động tích cực duy trì sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. 3.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15% - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước. ICOR = Vốn đầu tư/Mức tăng GDP. Từ đó suy ra: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư/ICOR. Nếu hệ số ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào Vốn đầu tư. Chỉ tiêu ICOR của mỗi quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, thay đổi theo trình đọ phát triển và cơ chế chính sách của mỗi nước. ở Việt Nam hệ số ICOR trong thời gian qua như sau: Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Hệ số ICOR 3,1 3,1 3,8 4,4 5,5 4,0 Nguồn: Kinh tế Việt Nam và thế giới 2000 ... 2001. Hệ số ICOR của Việt Nam tăng dần đã chứng tỏ hiệu quả đầu tư còn thấp tốc độ tăng trưởng kinh tế theo đó cũng thấp tương ứng. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến, ở nhiều nước đầu tư đóng vai trò như một cú huých ban đầu tạo đà cho sự cất cánh nền kinh tế. 3.4. Đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư vừa làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật phát triển, chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung của từng thời kỳ, vừa tạo ra một sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế, giữa các ngành,vùng và tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của ngành, vùng về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để tăng trưởng nhanh với một tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp, bởi vì khu vực nông nghiệp do những hạn chế về khả năng sinh học để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% - 6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng trên toàn bộ nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế Việt Nam đã dần dần phù hợp hơn theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp. Về cơ cấu vùng kinh tế, đầu tư có tác dụng giải quyết sự mất cân đối về phát triển, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu bằng cách phát huy tối đa lợi thế so sánh của mỗi vùng, phát triển mạnh những vùng có lợi thế để làm bàn đạp thúc đẩy các vùng khác phát triển. Nhìn chung đầu tư chính là yếu tố tác động mạnh nhất đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc tăng giảm vốn đầu tư theo thứ tự ưu tiên cho từng vùng, ngành trong từng thời kỳ. 3.5. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển khoa học công nghệ thành 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 mới ở giai đoạn 1 và 2. Việt Nam là một trong 90 nước kém nhất về khoa học công nghệ hiện nay.Với trình độ khoa học công nghệ như vậy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một số chiến lược phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Chúng ta biết rằng có hai con đường để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh và nua của nước ngoài. Dù là tự nhiên hay nhập khẩu thì đều cần vốn, mọi phương án công nghệ nếu không gắn với nguồn vốn đầu tư đều không có tính khả thi. 4. Nguồn vốn đầu tư. Để thực hiện hoá các dự án đầu tư khả thi, vốn là yếu tố đầu vào quan trọng nhất. Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư bao gồm hai nguồn chính là vốn trong nước và vốn nước ngoài - Vốn trong nước bao gồm: + Vốn tích luỹ từ ngân sách. + Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp. + Vốn tiết kiệm của dân cư. Đây là nguồn vốn cơ bản cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục lâu dài, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn. Khối lượng vốn đầu tư trong nước có thể huy động được phụ thuộc vào các nhân tố sau: + Quy mô và tốc độ tăng GDP + Quan hệ tích luỹ và tiêu dùng của Nhà nước. ở các nước phát triển tỷ lệ tích luỹ thấp, tỷ lệ tiêu dùng cao. + Tiền tiết kiệm của dân cư: ở nhiều nước tiền tiết kiệm của dân cư chiếm một bộ phận lớn với tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng các khoản tiết kiệm của cả nước. Mức tiết kiệm của dân một mặt phụ thuộc và thu nhập của dân, mặt khác phụ thuộc vào mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm và chính sách ổn định tiền tệ của Nhà nước. - Vốn nước ngoài: Trong những bước đi ban đầu của các nước đang phát triển để tạo ra được cú huých và có được tích luỹ đầu tiên cho phát triển kinh tế không thể huy động vốn nước ngoài. Không có một nước chậm phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Vốn nước ngoài bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. + Vốn đầu tư gián tiếp: Là nguồn tài chính mang tính chất hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của các chính phủ các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế khác trong đó người có vốn không trực tiếp sử dụng vốn. Đầu tư gián tiếp có thể được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời gian dài và lãi suất thấp, kể cả cho vay dưới hình thức thông thường. Một trong những hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA – viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn nên có tác dụng mạnh mẽ đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. ở Việt nam thời gian qua đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các công trình cơ sở hạ tầng bằng việc hỗ trợ cùng vốn ngân sách để đầu tư như các nhà máy điện, hay các công trình cầu đường... kể cả tham gia trong các chương trình xoá đói giảm nghèo hay các chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, các dự án cung cấp nước sạch cho miền núi và nông thôn. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường phải gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay. + Vốn đầu tư trực tiếp: Là vốn của các doanh nghiệp và các cá nhân nước ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp tham gia quản lý công trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra. Tuy nhiên vốn này không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của các nước nhận đầu tư. Cái mà các nước nhận đầu tư là không phải lo lắng trả nợ mà lại có thể dễ dàng có được công nghệ, học tập được trình độ, kinh nghiệm quản lý và tổ chức sản xuất, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Nước nhận đầu tư trực tiếp chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại theo tỷ lệ góp vốn với nhà đầu tư, vì vậy có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp sẽ làm cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư. II.Quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp (KCN) ở Việt Nam: 1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của khu công nghiệp đối với nền kinh tế. 1.1.Khái niệm. Xuất phát từ các quốc gia ở ven bờ Đông và Nam Địa Trung Hải vào đầu thế kỷ 19, quan niệm về KCN lan sang châu á dươí hình thức hải cảng tự do. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và đầu tư, KCN dần dần xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau : khu mậu dịch tự do, kho quá cảng, đặc khu kinh tế... Theo nghĩa rộng thì KCN bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp, nó là khu biệt lập có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch và thuế quan phổ thông của nước đó. Theo quan niêm này KCN bao gồm các cảng tự do, các khu vực mậu dịch tự do, các khu vực phi thuế quan, các khu vực công nghiệp tự do, các khu vực ngoại thương. Theo Nghị định số 36/CP quy định về KCN, KCX của Chính Phủ ban hành ngày 24-4-1997 thì “KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nhgiệp, có danh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. Trong KCN có thể có các doanh nghiệp chế xuất”. 1.2.Đặc điểm KCN: Cho đến nay, các KCN đã được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Mặc dù có sự khác nhau về quy mô, địa điểm và phương thức xây dựng cơ sỏ hạ tầng, nhưng nói chung các KCN có những đặc điểm chủ yếu sau: Về tính chất hoạt động: Là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà không có dân cư (gọi chung là doanh nghiệp KCN). KCN là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp.Theo điều 6 Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm Nghị định 36/CP thì doanh nghiệp KCN có thể là các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các bên tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghiệp này được quyền kinh doanh trong các lĩnh vực cụ thể sau: - Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. - Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu dùng ở trong nước; phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kĩ thuật, quy trình công nghệ. - Nghiên cứu, triển khai khoa học-công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới. - Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ thống điện nước, điện thoại...Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN do một công ty xây dựng và phát triển cơ sơ hạ tầng đảm nhiệm. ở Việt Nam những công ty này là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước thực hiện. Các công ty phát triển cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các doanh nghiệp khác thuê lại. Về tổ chức quản lý: Trên thực tế mỗi KCN đều thành lập hệ thống BQL KCN cấp tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong KCN. Ngoài ra tham gia vào quản lý tại các KCN còn có nhiều Bộ như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Xây dựng... 1.3.Vai trò của KCN đối với nền kinh tế: 1.3.1.Tăng cường khả năng thu hút đầu tư, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế: Hầu hết các nước đang ở thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đều gặp phải một bài toán nan giải là tình trạng thiếu vốn. Thông qua những ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước các KCN có được môi trường đầu tư hấp dẫn , vì vậy nó có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn FDI. Theo Ngân Hàng thế giới, cho đến 1999 các dự án thực hiện trong KCN do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện chiếm tỷ lệ khá cao ( khoảng 43% số dự án do doanh nghiệp trong nước thực hiện, 24% do liên doanh với nước ngoài, và 33% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện ).Do vậy KCN đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút FDI. Chẳng hạn như Đài Loan và Malaxia, trong những năm đầu phát triển, KCN đã thu hút được 60% số vốn FDI. Đồng thời, các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN phần lớn là các đơn vị có tiềm năng. Do đó hoạt động có hiệu quả góp phần vào các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Trong đó dáng kể nhất là việc góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ do việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. ở một số nước, KCN đã góp phần đáng kể cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Ví dụ như Malaixia, hiện nay giá trị xuất khẩu của các KCN chiếm 30% trong tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chế biến, ở Mêhicô là 50%. 1.3.2. Các KCN sẽ có tác động ngược trở lại đối với nền kinh tế: Những hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN sẽ có mối liên hệ với các khu vực khác như cung cấp nguyên liệu và các dịch vụ gia công chế biến sản phẩm cho KCN. Thông qua các hoạt động sản xuất để cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp trong KCN sẽ giúp cho các khu vực xung quanh KCN sẽ có điều kiện phát triển. Tại một số nước tỷ lệ cung cấpmột số đầu vào khá cao, như Hàn Quốc tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu trong nước tăng từ 3% năm 1971 lên 34% năm 1979 và duy trì tỷ lệ này từ đó đến nay. 1.3.3. KCN là cơ sở để tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, học hỏi phương thức quản lý mới, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động: Các KCN khi được thành lập đều đặt ra mục tiêu tiếp cận các công nghệ hiện đại. Theo một nhà kinh tế phương Tây nhận định: việc thành lập các KCN còn có ý nghĩa hơn là một sự thay đổi chính sách, bởi sự thay đổi chính sách từ bóp nghẹt sang cởi mở thông thoáng chỉ có ý nghĩa tối đa khi chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường. Còn sự thực khi nền kinh tế đã hạn chế bớt đi các trói buộc phong kiến, hành chính thì điều có ý nghĩa hơn lại là một chính sách kỹ thuật và công nghệ khả dĩ đủ hấp dẫn để thu hút được các kỹ thuật và công nghệ mới của nước ngoài vào sự tái thiết nền kinh tế nội địa. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng phải chú trọng vào công tác dào tạo cán bộ, công nhân cho phù hợp với trình độ của máy móc cũng như phương thức kinh doanh mới. Do vậy, trình độ của người lao động sẽ được nâng lên phù hợp tác phong lao động công nghiệp. 1.3.4. KCN tạo thêm việc làm cho người lao động. Hầu hết các nước đang phát triển trong quá trình phát triển kinh tế đều gặp phải tình huống khó xử : nếu theo duổi mục tiêu toàn dụng nhân lực thì khó thực hiện mục tiêu chống lạm phát, đồng thời ước muốn nền sản xuất xã hội đạt hiệu quả cao bằng cách du nhập các công nghệ tinh vi tức là ít sử dụng lao động sống thì sẽ làm gia tăng nạn thất nghiệp. Tuy chưa phải là giải pháp lý tưởng nhưng việc thiết lập các KCN là một cơ hội quan trọng để giải quyết mâu thuẫn này. Theo Ngân hàng Thế giới đến nay số việc làm chỉ tính riêng trong KCN đã lên tới 4-5 triệu chỗ. Trong đó châu á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất chiếm 76.59% tổng số chỗ. 2. Sự hình thành và phát triển KCN của Việt Nam. 2.1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành KCN tại Việt Nam. Mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại giữ vai trò q

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc918.doc
Tài liệu liên quan