Sau 60 năm hoạt động, ngành Ngân hàng Việt Nam đã trải qua một thời kỳ đầy sôi động và ý nghĩa. Các chủ trương, chính sách đổi mới hoạt động Ngân hàng đã góp phần quan trọng trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát và chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động Ngân hàng ở nước ta đang gặp nhiều khó khăn đặc biệt là trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương Mại (NHTM).Tín dụng được coi là mặt trận hàng đầu, là khâu then chốt trong hoạt động kinh doanh của NHTM bên cạnh đó là các hoạt động hướng tới việc phát triển thị trường sản phẩm tín dụng đang là mối quan tâm không chỉ là của các cấp lãnh đạo, quản lý và điều hành của hệ thống Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của cả xã hội.
Bởi vậy, làm thế nào để sảm phẩm tín dụng của các NHTM tiếp cận được tới rộng khắp các hoạt động của các tập thể, cá nhân trong nền kinh tế đang là vấn đề bức xúc và có ý nghĩa rất quan trọng. Trong những năm gần đây, NHTM Việt Nam đã có những biện pháp tích cực nhằm mở rộng quy mô tín dụng, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay, ứng dụng công nghệ cao .nhưng vấn đề quan trọng của các NHTM hiện nay là cần phải có các giải pháp hữu hiệu gắn với kế hoạch phát triển thị trường, hướng vào việc nâng cao chất lượng tín dụng, đem lại hiệu quả cao nhất thì ngành Ngân hàng nói chung và hệ thống NHTM nói riêng mới có thể ngày càng phát triển và đứng vững trên con đường hội nhập kinh tế toàn cầu.
Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Đống Đa, Hà Nội cũng không nằm ngoài những vấn đề này. Tuy mới được thành lập nhưng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Đống Đa, Hà Nội đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác tín dụng song bên cạnh đó cũng có không ít những khó khăn đang gặp ở phía trước.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động phát triển thị trường công tác huy động vốn trong hoạt động của Ngân hàng. Với những kiến thức đã học và qua thực tế tại ngân hàng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Đống Đa, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Kế hoạch phát triển thị trường sản phẩm tín dụng tiêu dùng của ngân hàng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Đống Đa, Hà Nội.”
Do thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức thực tế không nhiều, bài chuyên đề của em còn nhiều điểm chưa đề cập đến và còn có những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa để bài chuyên đề của được hoàn thiện hơn.
61 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1047 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Thực trạng phát triển thị trường tín dụng tự do tại chi nhánh Sacombank Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động phân theo thời hạn huy động
Bảng 2: Dư nợ và tỷ lệ nợ xấu qua các năm
Bảng 3: Hoạt động kinh doanh ngoại hối
Bảng 4: Kết qủa hoạt động kinh doanh qua các năm
B¶ng 5: D nî TDTD theo môc ®Ých cho vay t¹i chi nh¸nh Sacombank Đống Đa qua c¸c n¨m.
Bảng 6: Số lượt khách hàng đến quan hệ giao dịch TDTD với chi nhánh trong năm
Bảng 7: Tình hình doanh thu từ TDTD tại chi nhánh NHNo Thăng Long từ năm 2002-2004.
Biểu 1: Tình hình tăng trưởng TDTD theo mục đích cho vay tại chi nhánh qua các năm.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sau 60 năm hoạt động, ngành Ngân hàng Việt Nam đã trải qua một thời kỳ đầy sôi động và ý nghĩa. Các chủ trương, chính sách đổi mới hoạt động Ngân hàng đã góp phần quan trọng trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát và chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hoạt động Ngân hàng ở nước ta đang gặp nhiều khó khăn đặc biệt là trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương Mại (NHTM).Tín dụng được coi là mặt trận hàng đầu, là khâu then chốt trong hoạt động kinh doanh của NHTM bên cạnh đó là các hoạt động hướng tới việc phát triển thị trường sản phẩm tín dụng đang là mối quan tâm không chỉ là của các cấp lãnh đạo, quản lý và điều hành của hệ thống Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của cả xã hội.
Bởi vậy, làm thế nào để sảm phẩm tín dụng của các NHTM tiếp cận được tới rộng khắp các hoạt động của các tập thể, cá nhân trong nền kinh tế đang là vấn đề bức xúc và có ý nghĩa rất quan trọng. Trong những năm gần đây, NHTM Việt Nam đã có những biện pháp tích cực nhằm mở rộng quy mô tín dụng, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay, ứng dụng công nghệ cao….nhưng vấn đề quan trọng của các NHTM hiện nay là cần phải có các giải pháp hữu hiệu gắn với kế hoạch phát triển thị trường, hướng vào việc nâng cao chất lượng tín dụng, đem lại hiệu quả cao nhất thì ngành Ngân hàng nói chung và hệ thống NHTM nói riêng mới có thể ngày càng phát triển và đứng vững trên con đường hội nhập kinh tế toàn cầu.
Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Đống Đa, Hà Nội cũng không nằm ngoài những vấn đề này. Tuy mới được thành lập nhưng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Đống Đa, Hà Nội đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác tín dụng song bên cạnh đó cũng có không ít những khó khăn đang gặp ở phía trước.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động phát triển thị trường công tác huy động vốn trong hoạt động của Ngân hàng. Với những kiến thức đã học và qua thực tế tại ngân hàng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Đống Đa, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Kế hoạch phát triển thị trường sản phẩm tín dụng tiêu dùng của ngân hàng Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Đống Đa, Hà Nội.”
Do thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức thực tế không nhiều, bài chuyên đề của em còn nhiều điểm chưa đề cập đến và còn có những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa để bài chuyên đề của được hoàn thiện hơn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Phân tích việc triển khai Chương trình hỗ trợ các huyện nghèo của tỉnh Lào Cai, đánh giá những mặt thành công và hạn chế của chương trình, tìm hiểu nguyên nhân của chúng qua đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư hỗ trợ giảm nghèo “Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP” tại tỉnh Lào Cai.
3. Đối tượng:
Tìm hiểu về kế hoạch phát triển thị trường sản phẩm tín dụng tiêu dùng của ngân hàng thương mại, từ đó nêu lên hướng hoàn thiện cho đề tài.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:
Tình hình kinh doanh số lượng, số lượt và doanh thu từ các sản phẩm của ngân hàng thương mại song do thời gian nghiên cứu có hạn và trong khuôn khổ của một chuyên đề tốt nghiệp em chỉ tiến hành tập trung nghiên cứu hướng phát triển thị trường sản phẩm tín dụng tiêu dùng do ngân hàng SacomBank chi nhánh đống Đa trên địa bàn Hà Nội.
5. Câu hỏi nghiên cứu:
Kế hoạch phát triển thị trường sản phẩm TDTD của ngân hàng như thế nào?
Kế hoạch đó có phù hợp với tình hình chung của nền kinh tế trong hiện tại và thời gian tới hày không? Có mang lại hiệu quả trong kinh doanh của ngân hàng hay không? Tìm ra nguyên nhân?
Hướng giải pháp hoàn thiện kế hoạch phát triển thị trường sản phẩm TDTD?
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp nhằm hệ thống hóa các khái niệm và các vấn đề lý luận liên quan đến chuyên đề.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Điều tra khảo sát, lấy ý kiến của các chuyên gia, trao đổi, quan sát, phỏng vấn sâu, tổng kết kinh nghiệm.
7. Bố cục của chuyên đề:
Mở đầu
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng tiều dùng và công tác kết hoạch phát triển thị trường sản phẩm.
Chương 2: Tình hình phát triển của ngân hàng Sài Gòn Thương Tín và kế hoạch phát triển sản phẩm TDTD tại chi nhánh Đống Đa.
Chương 3: Hướng hoàn thiện kế hoạch phát triển thị trường sản phẩm tín dụng tiêu dùng.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TIÊU DÙNG VÀ CÔNG TÁC KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM
Tín dụng tiêu dùng và ý nghĩa của việc phát triển thị trường sản phẩm TDTD.
Khái niệm và đặc điểm của TDTD
Tín dụng làm một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) , trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoản trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu. Trên cơ sở mục đích cho vay, tín dụng được phân thành nhiều loại, trong đó phải kể đến hình thức tín dụng tiêu dùng, một trong những nghiệp vụ được dự đoán là sẽ đóng vai trò chủ đạo tại các NHTM trong tương lai.
Tín dụng tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm có cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng trang trải các nhu cầu về nhà ở, đồ dùng gia đình… Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo dục, y tế và du lịch… cũng có thể được tài trợ bởi các khoản tín dụng tiêu dùng.
Nhìn chung, tín dụng tiêu dùng có đặc điểm sau:
Quy mô của từng hợp đồng vay thường nhỏ, dẫn đến chi phí tổ chức cho vay cao, vì vậy lãi suất của tín dụng tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất của các loại cho vay trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.
Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng thường phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế. Điều này được thể hiện rất rõ qua các giai đoạn của nền kinh tế . Khi nền kinh tế tăng trưởng cao, thu nhập của người dân cũng tăng lên , do đó họ có nhu cầu mua sắm nhiều hơn. Tuy nhiên, khi nền kinh tế có nguy cơ lạm phát, thì nhu cầu tiêu dùng giảm dần, một phần do giá cả các mặt hàng tăng cao, phần nữa là do kỳ vọng của người dân cũng giảm đi.
Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co dãn với lãi suất. Thông thường , người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là mức lãi suất mà họ phải gánh chịu.
Mức thu nhập và trình độ học vấn là hai biến số có quan hệ rất mật thiết tới nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng. Cụ thể là, khi thu nhập của khách hàng tăng lên, họ có nhu cầu tiêu dùng nhiều hơn, một phần do mong muốn được cải thiện đời sống của mình. Trong khi đó, với mức thu nhập thấp, nhu cầu tiêu dùng thường bị hạn chế. Tương tự như vậy, trình độ học vấn cũng có ảnh hưởng tới nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng. Thể hiện, với trình độ học vấn cao, khách hàng thường có nhu cầu sử dụng những hàng hoá hiện đại và đắt tiền hơn, do đó mà nhu cầu tiêu dùng cũng cao hơn.
Chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao. Với những khoản cho vay tiêu dùng, khách hàng thường là các cá nhân, hộ gia đình. Do đó, các thông tin tài chính của khách hàng chủ yếu là việc xem xét và đánh giá nguồn trả nợ, cụ thể là thu nhập của khách hàng, ngoài ra còn có các tài sản thuộc sở hữu của khách hàng. Mức thu nhập và sự ổn định của thu nhập là những thông tin quan trọng trong quá trình đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Tuy vậy, khó có thể đánh giá chính xác nguồn thu nhập của khách hàng bởi bên cạnh nguồn thu nhập ổn định, khách hàng còn có một khoản thu nhập không thường xuyên. Ngoài việc xem xét các khoản thu nhập, ngân hàng cũng quan tâm tới số dư các tài khoản tiền gửi của khách hàng- một tiêu thức gián tiếp về tổng thu nhập và sự ổn định thu nhập của khách hàng. Tuy nhiên, ở nước ta, việc sử dụng tài khoản cá nhân hoàn toàn chưa được phổ biến trong dân cư nên việc quản lý thông tin khách hàng dưới hình thức này hiện chưa được thực hiện.
Nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn, phụ thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của những người này. Thông thường, với những người có quá trình làm việc càng lâu thì jmức thu nhập cũng tăng lên tương ứng với thời gian công tác, đặc biệt là với những người có kỹ năng và kinh nghiệm làm việc cao sẽ được trả mức lương xứng đáng với khả năng của họ. Do đó, tất cả các yếu tố trên quyết định sự ổn định và mức độ thu nhập của khách hàng.
Tư cách của khách hàng là yếu tố khó xác định song lại rất quan trọng, quyết định sự hoàn trả của khoản vay. Một khoản vay chỉ có thể được chấp nhận khi khách hàng được đánh giá là có tư cách tốt, mục đích vay đúng đắn và phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng. Tuy vậy, tư cách của khách hàng vay là yếu tố định tính , khó có thể được đánh giá một cách chính xác, mà chỉ có thể được xác minh và dự đoán trên cơ sở các thông tin thu thập được về khách hàng. Điều này lại phụ thuộc vào kỹ năng và kinh nghiệm của nhân viên phân tích tín dụng.
Các loại hình tín dụng tiêu dùng.
Trong phần này, việc phân loại tín dụng tiêu dùng được dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau nhằm giúp đưa ra một cái nhìn toàn diện về tín dụng tiêu dùng ở những giác độ khác nhau.
1.1.2.1. Căn cứ vào mục đích cho vay
Tín dụng tiêu dùng cư trú
Tín dụng tiêu dùng cư trú là các khoản vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
Đây là khoản tín dụng có giá trị lớn, thời hạn cho vay dài và tài sản hình thành từ vốn vay thường là tài sản đảm bảo.
Tín dụng tiêu dùng phi cư trú
Tín dụng tiêu dùng phi cư trú là các khoản vay nhằm tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch...
Đây là các khoản tín dụng mang tính chất nhỏ lẻ với thời hạn ngắn.
1.1.2.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
1.1.2.2.1. Tín dụng tiêu dùng trả góp.
Đây là hình thức tín dụng tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhắt định trong thời hạn cho vay. Phương thức này được áp dụng cho những khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập định kỳ của người đi vay không đủ khả năng trả hết một lần số nợ vay.
Đối với loại hình này, các ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
Loại tài sản được tài trợ
Thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng được nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thường chú ý đến điều này, vì vậy ngân hàng thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền hay có gía trị lớn. Vì với những loại tài sản như vậy, người tiêu dùng sẽ được hưởng những tiện ích từ chúng trong một khoảng thời gian dài.
Số tiền trả trước.
Thông thường, ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị cần mua sắm, số tiền này được gọi là số tiền trả trước, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu của tài sản, mặt khác có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận được mình là chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người đi vay có thể sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ, trong nhiều trường hợp, ngân hàng đành phải tiếp nhận và phát mãi tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị, tức là gía trị thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có một vai trò quan trọng giúp ngân hàng hạn chế rủi ro.
Số tiền trả trước thường phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại tài sản: Đối với các tài sản có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước nhiều, ngược lại với tài sản có mức độ giảm giá chậm thì số tiền trả trước ít.
Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi sử dụng: Tài sản sau khi đã sử dụng nếu vẫn có thể tiếp tục được mua, bán dễ dàng thì số tiền trả trước có xu hướng thấp, ngược lại nếu tài sản đã qua sử dụng mà khó tìm được thị trường tiêu thụ thì số tiền trả trước có xu hướng cao hơn.
Môi trường kinh tế.
Năng lực tài chính của người đi vay.
b. Chi phí của khoản tín dụng
Đây là chi phí mà người đi vay phải trả ngân hàng cho việc sử dụng vốn. Chi phí này bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan. Chi phí của khoản tín dụng này phải trang trải được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, rủi ro, đồng thời mang lại một phần lợi nhuận thoả đáng cho ngân hàng.
Điều khoản thanh toán
Khi xác định các điều khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề sau:
Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập, trong mối quan hệ hài hoà với các nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng.
Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa thu hồi.
Kì hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả nợ thường theo tháng. Bởi lẽ, thông thường, nguồn trả nợ chính của người đi vay lương được nhận hàng tháng.
Thời hạn cho vay không nên quá dài. Thời hạn cho vay thường bị giới hạn bởi thời hạn hoạt động của tài sản được tài trợ. Thời hạn cho vay quá dài dễ làm giá trị tài sản giảm mạnh. Hơn nữa, khi thời hạn cho vay quá dài thì thiện chí trả nợ của người đi vay cũng như việc thu hồi nợ thường gặp nhiều rắc rối.
Số tiền thanh toán cho mỗi định kỳ có thể được tính bằng một trong số các phương pháp sau đây:
Phương pháp gộp: Đây là phương pháp thường được áp dụng trong tín dụng tiêu dùng trả góp, do tính chất đơn giản và dễ hiểu của nó. Theo phương pháp này, trước hết lãi được tính bằng cách lấy vốn gốc nhân với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh toán để tìm số tiền phải thanh toán ở mỗi kỳ hạn trả nợ.
Phương pháp lãi đơn: Theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng kỳ được tính đều nhau, bằng cách lấy vốn gốc ban đâu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả mỗi định kỳ được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn thiếu ngân hàng.
Phương pháp hiện giá: Theo phương pháp này, số tiền gốc và lãi mà người đi vay phải trả được tính theo phương pháp hoàn trả theo niên kim.Ta có công thức: a=
trong đó a: số tiền gốc và lãi phải trả theo từng kỳ nhất định.
V: số vốn gốc ban đầu
i: lãi suất cho vay
n: số kỳ hạn trả nợ
Vấn đề phân bổ lãi cho vay theo thời gian .
Khi sử dụng phương pháp gộp để tính lãi, các ngân hàng thường tiến hành phân bổ lại phần lãi cho vay đã được tính. Việc phân bổ có thể được thực hiện theo định kỳ gắn liền với các kỳ thanh toán hoặc cũng có thể được thực hiện theo quý hay theo năm tài chính. Tuy nhiên, việc phân bổ lãi vay theo năm tài chính thường được các ngân hàng áp dụng nhiều hơn.
Vấn đề trả nợ trước hạn
Thông thường, người đi vay được quyền thanh toán tiền vay trước hạn mà không bị phạt. Nếu tiền trả góp được tính theo phương pháp lãi đơn và phương pháp hiện giá thì vấn đề rất đơn giản, người đi vay phải thanh toán toàn bộ vốn gốc còn thiếu và lãi của kỳ hạn hiện tại cho ngân hàng. Tuy nhiên, nếu tiền trả góp được tính bằng phương pháp gộp thì vấn đề có phần phức tạp hơn. Vì theo phương pháp gộp, lãi được tính dựa trên cơ sở giả định rằng tiền vay sẽ được khách hàng sử dụng cho đến lúc kết thúc hợp đồng, cho nên nếu khách hàng trả nợ trước hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn nợ gỉa định ban đầu và như vậy số tiền lãi
phải trả cũng có sự thay đổi. Trong trường hợp này ngân hàng thường áp dụng các phương pháp giống như phân bổ lãi vay nói trên.
Tín dụng tiêu dùng phi trả góp
Theo phương thức này, tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản tín dụng tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
Tín dụng tiêu dùng tuần hoàn
Đây là các khoản tín dụng tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào chi tiêu và thu nhập kiếm được từng thời kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép được thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng. Lãi phải trả mỗi kỳ có thể được tính dựa trên một trong ba cách sau:
Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương pháp này, số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng.
Lãi được tính dựa trên số dư trước khi được điều chỉnh: Theo cách này, số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán.
Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân.
1.1.2.3 Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
1.1.2.3.1. Tín dụng tiêu dùng gián tiếp
Tín dụng tiêu dùng gián tiếp là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu dùng.
(1): Ngân hàng và công ty bán lẻ ký hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu...
(2): Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(4): Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng
(5): Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6): Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng
Tín dụng tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
TDTD gián tiếp tạo điều kiện để ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng
TDTD gián tiếp cũng cho phép ngân hàng tiết kiệm và giảm bớt chi phí hoạt động cho vay.
Đây cũng là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác.
Nếu áp dụng phương thức có truy đòi thì TDTD gián tiếp có độ an toàn cao
Bên cạnh những ưu điểm như trên, TDTD gián tiếp còn có một số nhược điểm :
Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, mà chỉ được biết thông qua công ty bán lẻ. Bên cạnh đó ta nhận thấy rằng, các công ty bán lẻ không có chuyên môn sâu để thẩm định khách hàng một cách chi tiết và chính xác.
Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá cho người tiêu dùng.
Các công ty bán lẻ thực hiện phương thức này không nhằm cấp tín dụng cho khách hàng mà chỉ nhằm tăng doanh số bán hàng.
Kỹ thuật nghiệp vụ trong TDTD gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với TDTD gián tiếp. Còn những ngân hàng nào tham gia hoạt động này thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng chặt chẽ.
TDTD gián tiếp thường được thực hiện thông qua các phương thức sau đây:
Tài trợ truy đòi toàn bộ: Theo phương thức này, khi bán cho các ngân hàng các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng.
Tài trợ truy đòi hạn chế: Theo phương thức này, trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với các khoản nợ mà người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã được thoả thuận giữa ngân hàng và công ty bán lẻ. Dưới đây là các thoả thuận thường gặp trong truy đòi hạn chế:
Công ty bán lẻ phải chịu trách nhiệm thanh toán một phần nợ trong trường hợp nều người mua chịu không đủ tiền để trả trước một số tiền nhất định khi mua hoặc khách hàng không đủ các tiêu chuẩn tín dụng do ngân hàng đề ra.
Công ty bán lẻ cam kết chịu trách nhiệm cho toàn bộ số nợ đã bán chịu cho đến khi ngân hàng thu hồi được một số lượng các khoản nợ nhất định đúng hạn.
Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn trong phạm vi số tiền dự phòng ký gửi tại ngân hàng. Thường số tiền dự phòng được trích từ chênh lệch giữa chi phí tài trợ mà công ty bán lẻ tính cho người mua chịu và chi phí tài trợ mà ngân hàng tính cho công ty bán lẻ. Đây là trường hợp được các ngân hàng áp dụng phổ biến nhất. Số tiền dự phong ký gửi tại ngân hàng có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng khi người mua chịu không trả hoặc trả nợ không đúng hạn.
Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn theo một tỷ lệ nhất định so với tổng số nợ trong một thời hạn nhất định
Tài trợ miễn truy đòi: Theo phương thức này, sau khi bán các khoản nợ cho
ngân hàng, công ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc chúng có được hoàn trả hay không. Phương thức này chứa đựng rủi ro cao cho ngân hàng nên chi phí tài trợ thường được ngân hàng tính cao hơn so với các phương thức nói trên và các khoản nợ được mua cũng được lựa chọn rất kỹ. Ngoài ra, chỉ có những công ty được ngân hàng rất tin cậy mới áp dụng phương thức này.
Tài trợ có mua lại: Khi thực hiện TDTD gián tiếp theo phương thức miễn truy đòi hoặc truy đòi một phần, nếu rủi ro xảy ra, người tiêu dùng không trả nợ thì ngân hàng thường phải thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả thuận trước thì ngân hàng có thể bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán, kèm với tài sản đã được đắc thụ trong một thời hạn nhất định.
1.1.2.3.2. Tín dụng tiêu dùng trực tiếp
TDTD trực tiếp là các khoản tín dụng tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ họ.
(Sơ đồ trang sau)
(1): Ngân hàng ký kết hợp đồng tín dụng với người tiêu dùng và cung cấp thẻ tín dụng cho họ.
(2): Khách hàng dùng thẻ tín dụng để mua hàng hoá
(3): Ngân hàng trả tiền cho công ty bán lẻ.
(4): Công ty bán lẻ giao hàng hoá cho khách hàng
(5): Khách hàng trả nợ cho ngân hàng
So với TDTD gián tiếp, TDTD trực tiếp có một số ưu điểm sau:
Trong TDTD trực tiếp, ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của cán bộ tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động của mình, cán bộ tín dụng ngân hàng thường có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản tín dụng có chất lượng tốt trong khi các nhân viên của công ty bán lẻ thường chỉ chú trọng đến doanh số bán hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng các quyết định tín dụng thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh chóng, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với khách hàng tốt của mình. Nếu như người cấp tín dụng là ngân hàng thì điều này có thể được hạn chế.
TDTD trực tiếp linh hoạt hơn TDTD gián tiếp vì dễ có sự đàm phán giữa ngân hàng và khách hàng để ra quyết định một khoản tín dụng với lãi suất, thời hạn phù hợp với cả hai bên.
TDTD trực tiếp có độ an toàn cao vì ngân hàng trực tiếp thẩm định và giám sát tín dụng.
Ngoài những ưu điểm trên còn tồn tại một số nhược điểm:
Với phương thức này ngân hàng thường khó tăng doanh số cho vay.
Ngân hàng khó mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng vì ngân hàng phải trực tiếp tiếp xúc với khách hàng mà cán bộ tín dụng của ngân hàng khó có thể đáp ứng đủ số lượng.
Với những lý do trên TDTD có chi phí cao.
Ý nghĩa của TDTD
Tín dụng tiêu dùng là một trong những nghiệp vụ cơ bản của nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, và là loại hình có cơ cấu dư nợ tương đối đáng kể trong tổng dư nợ tín dụng của các NHTM ngày nay.
Xuất phát từ đặc điểm trên của tín dụng tiêu dùng, có thể thấy được tín dụng tiêu dùng đóng một vai trò rất quan trọng.Cụ thể:
Đối với ngân hàng:
TDTD giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi cho ngân hàng.
Tạo điều kiện giúp ngân hàng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
Đối với người tiêu dùng
TDTD tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu đặc biệt là những nhu cầu chi tiêu mang tính cần thiết, kịp thời. Nhờ đó người tiêu dùng được hưởng những tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền.
TDTD là phương thức cải thiện mức sống của người ti
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110880.doc