Campuchia và Việt Nam là hai nước láng giềng gần gũi với hơn 1.100 km đường biên giới chung và “sợi dây tự nhiên” - sông Mê Kông liên kết. Trong quá trình lịch sử hơn 40 năm quan hệ ngoại giao, Việt Nam và Campuchia đều nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Từ nhận thức ấy, chính phủ hai nước luôn tích cực phát triển mối quan hệ láng giềng truyền thống tốt đẹp lên một tầm cao mới xứng đáng với tiềm năng cũng như mong đợi của cả hai quốc gia. Đặc biệt, khi xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là động lực cho sự phát triển các quan hệ hợp tác cả về kinh tế, chính trị và văn hóa, thì Việt Nam và Campuchia đang có điều kiện rất lớn để phát triển quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và thương mại quốc tế nói riêng. Tuy nhiên xu thế đó cũng đặt ra không ít những khó khăn và thách thức cho cả hai nước.
Là một trong những quốc gia gia nhập WTO đầu tiên trong khu vực ASEAN, Campuchia thể hiện mình là một nước có tiềm lực về kinh tế với mức tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao, đạt xấp xỉ 8%/năm. Việt Nam trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mình không thể không liên kết, hợp tác với một láng giềng như vậy. Vì lẽ đó, Campuchia luôn trong top 3 nước của khu vực ASEAN mà Việt Nam xuất khẩu hàng hóa nhiều nhất. Vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Campuchia là một trong những mục tiêu phát triển thương mại của Việt Nam với các nước trong khu vực, và điều đó càng trở nên cấp thiết hơn trong bối cảnh chính trị khu vực hiện nay.
Từ cuối năm 2008 đến nay, tình hình chính trị của Campuchia và Thái Lan – hai đối tác kinh tế quan trọng của nhau đang ngày càng trở nên xấu đi vì tranh chấp biên giới xung quanh ngôi đền cổ Preahvihia. Cùng với những xô xát về mặt quân sự, những vụ trả đũa nhau về kinh tế của hai nước vẫn diễn ra liên tiếp trong năm qua. Có lúc tưởng chừng hai bên đóng cửa biên giới không cho người và hàng hóa qua lại, vì thế hoạt động trao đổi hàng hóa giữa hai nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Người dân Campuchia đang dần có xu hướng tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam thay thế cho hàng hóa từ Thái Lan. Ở góc độ Việt Nam, đây là cơ hội tốt cho hàng hóa nước ta thay thế thị phần của hàng hóa Thái Lan, vốn đóng vai trò chủ yếu trong thị trường Campuchia. Vì vậy vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Campuchia trong bối cảnh hiện nay đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nhận thức được điều đó, em đã lựa chọn đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Campuchia” làm chuyên đề thực tập cuối khóa của mình.
93 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Campuchia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài
Campuchia và Việt Nam là hai nước láng giềng gần gũi với hơn 1.100 km đường biên giới chung và “sợi dây tự nhiên” - sông Mê Kông liên kết. Trong quá trình lịch sử hơn 40 năm quan hệ ngoại giao, Việt Nam và Campuchia đều nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Từ nhận thức ấy, chính phủ hai nước luôn tích cực phát triển mối quan hệ láng giềng truyền thống tốt đẹp lên một tầm cao mới xứng đáng với tiềm năng cũng như mong đợi của cả hai quốc gia. Đặc biệt, khi xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là động lực cho sự phát triển các quan hệ hợp tác cả về kinh tế, chính trị và văn hóa, thì Việt Nam và Campuchia đang có điều kiện rất lớn để phát triển quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và thương mại quốc tế nói riêng. Tuy nhiên xu thế đó cũng đặt ra không ít những khó khăn và thách thức cho cả hai nước.
Là một trong những quốc gia gia nhập WTO đầu tiên trong khu vực ASEAN, Campuchia thể hiện mình là một nước có tiềm lực về kinh tế với mức tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao, đạt xấp xỉ 8%/năm. Việt Nam trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mình không thể không liên kết, hợp tác với một láng giềng như vậy. Vì lẽ đó, Campuchia luôn trong top 3 nước của khu vực ASEAN mà Việt Nam xuất khẩu hàng hóa nhiều nhất. Vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Campuchia là một trong những mục tiêu phát triển thương mại của Việt Nam với các nước trong khu vực, và điều đó càng trở nên cấp thiết hơn trong bối cảnh chính trị khu vực hiện nay.
Từ cuối năm 2008 đến nay, tình hình chính trị của Campuchia và Thái Lan – hai đối tác kinh tế quan trọng của nhau đang ngày càng trở nên xấu đi vì tranh chấp biên giới xung quanh ngôi đền cổ Preahvihia. Cùng với những xô xát về mặt quân sự, những vụ trả đũa nhau về kinh tế của hai nước vẫn diễn ra liên tiếp trong năm qua. Có lúc tưởng chừng hai bên đóng cửa biên giới không cho người và hàng hóa qua lại, vì thế hoạt động trao đổi hàng hóa giữa hai nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Người dân Campuchia đang dần có xu hướng tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam thay thế cho hàng hóa từ Thái Lan. Ở góc độ Việt Nam, đây là cơ hội tốt cho hàng hóa nước ta thay thế thị phần của hàng hóa Thái Lan, vốn đóng vai trò chủ yếu trong thị trường Campuchia. Vì vậy vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Campuchia trong bối cảnh hiện nay đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nhận thức được điều đó, em đã lựa chọn đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Campuchia” làm chuyên đề thực tập cuối khóa của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích:
Nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Campuchia, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động này trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Thứ nhất, nghiên cứu tổng quan tình hình kinh tế thương mại Campuchia và sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Campuchia
- Thứ hai, nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Campuchia
- Thứ ba, định hướng và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Campuchia
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Campuchia
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Campuchia; các nhóm mặt hàng xuất khẩu gồm có: nhóm sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, khoáng sản, thực phẩm chế biến.
- Về thời gian: Từ năm 2001 đến nay (tháng 3 năm 2010)
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích và tổng hợp
- So sánh đối chiếu
- Thống kê nghiên cứu
- Kế thừa kết quả nghiên cứu cùng lĩnh vực
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu đề tài của chuyên đề thực tập cuối khóa được chia làm ba chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình kinh tế Campuchia và quan hệ thương mại Việt Nam – Campuchia
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Campuchia
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Campuchia
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ CAMPUCHIA VÀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM - CAMPUCHIA
1.1. Tổng quan về đất nước Campuchia và mối quan hệ Việt Nam – Campuchia
1.1.1. Vài nét về đất nước Campuchia
Campuchia có tên đầy đủ là Vương Quốc Campuchia (the Kingdom of Cambodia). Diện tích là 181.035 km2. Vị trí địa lý nằm ở Tây Nam bán đảo Đông Dương, Tây và Tây Bắc giáp Thái Lan, Đông và Đông Nam giáp với Việt Nam, Bắc giáp với Lào, Nam giáp với Vịnh Thái Lan.
Dân số là 14,4 triệu người (thống kê năm 2007), trong đó người Khmer chiếm 90%, còn lại là các dân tộc khác. Thủ đô có tên là Phnôm Pênh (dân số khoảng 1,2 triệu người). Ngoài Phnôm Pênh còn có ba thành phố khác là Komphong Cham, còn gọi là Sihanoukville, Kep và Pailin. Quốc khánh là ngày 9/11/1953.
Ngôn ngữ chính là tiếng Khmer, ngoài ra Tiếng Pháp, Tiếng Anh được dùng thông dụng. Tôn giáo chính là đạo Phật (tiểu thừa) chiếm 95%, được coi là quốc đạo. Đạo Hồi và Thiên chúa giáo chiếm 5%.
Khí hậu đặc trưng nhiệt đới với hai mùa rõ rệt (mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4). Nhiệt độ trung bình dao động từ 21 độ C đến 35 độ C. Tháng ba và tháng tư là nóng nhất còn tháng Giêng là tháng mát nhất trong năm.
Đơn vị tiền tệ là Riel, với tỷ giá hối đoái là 0,1 USD = 4.092,5 Riel. Tiền Đồng của Việt Nam và tiện Baht của Thái Lan có thể dùng được ở các tỉnh biên giới.
Tài nguyên chính của Campuchia là rừng, nước và khoáng sản. Rừng chiếm khoảng 70% diện tích. Khu vực sông Mekong và Tonle Sap là những khu vực màu mỡ nhất, chiếm khoảng 20% tổng diện tích của Campuchia. Đường bờ biển và vịnh Thái Lan cũng rất nổi tiếng với rừng đước ngập mặn. Khoáng sản có đá quý như đá sa-phia, ruby, quặng sắt, quặng mangan, bôxít, dầu mỏ…
Về phong tục tập quán, người Campuchia sống kín đáo, giản dị và nhã nhặn. Họ thường chào nhau theo kiểu truyền thống là chắp hai tay vào nhau như cầu nguyện, đầu hơi cúi. Họ coi trọng gia đình hạt nhân, trong đó người phụ nữ đóng vai trò chính; gia đình bên vợ cũng quan trọng hơn gia đình bên chồng.
Về chính trị, Campuchia là quốc gia quân chủ lập hiến. Hiến pháp Campuchia quy định Campuchia thực hiện chính sách dân chủ, đa đảng. Hệ thống quyền lực được phân định rõ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp bao gồm: Vua, Hội đồng ngôi Vua, Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Hội đồng Hiến pháp và cơ quan hành chính các cấp. Lãnh đạo chính là Thủ tướng chính phủ Hoàng gia Samdech Techo Hun Sen. Vào năm 2009, Campuchia đã tổ chức thành công cuộc bầu cử Hội đồng lãnh đạo cơ sở cấp thủ đô, tỉnh, thành, quận, huyện (ngày 17/05). Kết quả là hầu hết các vị trí lãnh đạo Chủ tịch Hội đồng cấp thủ đô, tỉnh, thành, quận, huyện đều do Đảng nhân dân đảm nhiệm. Hiện nay vấn đề chính trị của Campuchia đang gặp rất nhiều vấn đề do sự mâu thuẫn giữa Đảng nhân dân đảm nhiệm và Đảng đối lập Sam Rainsy. Với những diễn biến bất lợi về chính trị trong nước, Campuchia vẫn cần ổn định và hoàn thiện bộ máy lập pháp và hành pháp của mình để bắt tay vào phát triển kinh tế xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, Campuchia còn đứng trước nhiều trắc trở, hiểm họa từ bên ngoài, đe dọa sự hòa hợp dân tộc, sự ổn định về chính trị - xã hội, tiền đề cơ bản của sự phát triển đất nước.
1.1.2. Tình hình phát triển kinh tế thương mại Campuchia
Campuchia là nước nông nghiệp với 20% diện tích là đất nông nghiệp, 75% dân số làm nghề nông. Sản phẩm chủ yếu là lúa, ngô, lạc, cau su, thuốc lá…; tài nguyên quý hiếm như dầu mỏ, gỗ, đá quý, hồng ngọc, vàng, bôxít… Campuchia còn có khu đền Angkor được xếp hạng là một trong số các kỳ quan của thế giới.
Kinh tế Campuchia bắt đầu phát triển vào những năm 90 khi nền kinh tế thị trường được thiết lập. Từ năm 2000 đến năm 2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 6,4%; năm 2005 đạt 8,4%, trong đó có bốn lĩnh vực phát triển mạnh là dệt may, nông nghiệp, du lịch và xây dựng. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9,1%, năm 2007 là 9,6%, năm 2008 là 7,5%. Có sự giảm đáng kể của năm 2008 so với năm 2007 là do xuất khẩu của Campuchia giảm, đặc biệt là ngành dệt may do có sự cạnh tranh gay gắt của hàng dệt may Trung Quốc khi rào cản đối với hàng hóa Trung Quốc được bãi bỏ vào cuối năm 2008. Minh họa ở bảng biểu sau đây:
Bảng 1.1: GDP và tốc độ tăng trưởng GDP của Campuchia năm 2003 – 2009
Đơn vị: tỷ USD
Năm
GDP
Tốc độ tăng trưởng (%)
2003
28,87
7,0
2004
31,10
7,7
2005
33,69
8,4
2006
36,78
9,1
2007
40,31
9,6
2008
43,33
7,5
2009
46,29
6,8
(Nguồn: Quỹ tiền tệ thế giới và Ngân hàng phát triển Châu Á)
Biểu 1.1: Tốc độ tăng trường GDP của Campuchia năm 2003 – 2009
(Nguồn: Quỹ tiền tệ thế giới và Ngân hàng phát triển Châu Á)
Về nông, lâm, ngư nghiệp: Giá trị ngành này chiếm 28,5% trong GDP. Năm 2003 giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng 10,2% ; năm 2004 giảm 1,0% ; năm 2005 tăng 15,5% ; năm 2006 tăng 5,5% và năm 2007 tăng 5,2%. Campuchia là nước nông nghiệp với hơn 75 % dân số sống bằng nghề nông, sản phẩm chủ yếu là lúa, ngô, đậu các loại, cao su, lá thuốc lá, hải sản.v.v…và nhiều loại khoảng sản khác. Trị giá của ngành nông nghiệp là 31% GDP năm 2007, thấp hơn so với năm 2006 là 35% do sự nông nghiệp gặp nhiều khó khăn về thiên tai, dịch họa… Đồng thời cũng là do có sự gia tăng mạnh mẽ ở ngành sản phẩm chế biến và may mặc.
Về công nghiệp và xây dựng: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2003 tăng 12,4 % ; năm 2004 tăng 17,0 % ; năm 2005 tăng 12,9 % ; năm 2006 tăng 18,4 % và năm 2007 tăng 8,0 %. Ngành công nghiệp của Campuchia còn yếu kém, chủ yếu dựa vào đầu tư và viện trợ của nước ngoài. Hàng năm Campuchia phải nhập siêu hàng trăm triệu USD. Tuy vậy, ngành công nghiệp của Campuchia cũng có sự phát triển đáng kể trong những năm trở lại đây, chủ yếu là hàng công nghiệp nhẹ dệt may, da giày; công nghiệp nặng gần như chưa có chuyển biến đáng kể.
Về dịch vụ: Thế mạnh của ngành du lịch Campuchia là quần thể các ngôi đền Angkorwat, kỳ quan nổi tiếng của thế giới đã được công nhận. Giá trị gia tăng ngành du lịch của Campuchia đạt 43% GDP trong năm 2007, lớn hơn hẳn ngành nông nghiệp và công nghiệp, điều đó cho thấy tiềm năng du lịch của vương quốc này là rất lớn.
Về đầu tư: Năm 2007 Hội đồng phát triển Campuchia cấp phép 130 dự án đầu tư với tổng số vốn 2,7 tỷ USD, tăng 31,3 % so với năm 2006. Đầu tư từ phía Campuchia chỉ yếu là từ khu vực cá thể với các xí nghiệp vừa và nhỏ, tập trung vào các lĩnh vực như lương thực thực phẩm; thêu, dệt, đồ da; sản phẩm hóa chất như xà fòng, hương liệu…; sản phẩm tái chế… Đầu tư từ nước ngoài tập trung chủ yếu ở lĩnh vực dệt may; nhà hàng khách sạn; bảo hiểm; viễn thông; phân phối, tiếp thị dầu khí… Hiện đầu tư nước ngoài chiếm 16% GDP của Campuchia. Các nhà đầu tư lớn vào Campuchia gồm có: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Pháp, Mỹ… Tuy nhiên do tình hình chính trị chưa ổn định, bộ máy hành chính cồng kềnh và tệ tham nhũng, hối lộ nặng nề nên đầu tư nước ngoài vào Campuchia còn bị hạn chế.
Về thương mại: Trong giai đoạn 5 năm trở lại đây, hoạt động xuất khẩu của Campuchia có nhiều tiến triển vượt bậc, đạt những kết quả cao. Gần 75 % kim ngạch xuất khẩu của Campuchia là hàng may mặc, năm 2003 xuất khẩu đạt 2,087 tỷ USD ; năm 2004 đạt 2,589 tỷ USD ; năm 2005 đạt 2,910 tỷ USD ; năm 2006 đạt 3,694 tỷ USD và năm 2007 đạt 4,042 tỷ USD tăng 9,4 % so với năm 2006. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Campuchia là quần áo, giày dép, cao su, gạo, cá, thuốc lá. Đối tác xuất khẩu chủ yếu là Mỹ chiếm 42,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, Hồng Kông chiếm 29,4%, Đức chiếm 8,6%, Canada chiếm 6,6% năm 2008. Về nhập khẩu, năm 2003 nhập khẩu đạt 2,087 tỷ USD ; năm 2004 đạt 3,269 tỷ USD ; năm 2005 đạt 3,928 tỷ USD ; năm 2006 đạt 4,749 tỷ USD và năm 2007 đạt 5,377 tỷ USD tăng 13,2 % so với năm 2006.
1.1.3. Tổng quan chung về mối quan hệ Việt Nam – Campuchia
Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 24/6/1967. Năm 1930, Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời, sau một thời gian lãnh đạo đã tách ra thành ba Đảng độc lập. Việt Nam đưa quân sang Campuchia lần thứ nhất giúp Campuchia tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1954 – 1970, chính quyền Sihanouk thực hiện chính sách hòa bình trung lập tích cực, từng bước có quan hệ tốt với các lực lượng Cách Mạnh Việt Nam, ủng hộ đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Từ năm 1970 – 1975, các lực lượng cách mạng của 3 nước Đông Dương thành lập Mặt trận Đoàn kết Đông Dương để hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chung chống Mỹ và tay sai. Quân tình nguyện của Việt Nam lần thứ hai vào Campuchia. Từ 1979 – 1989, Việt Nam lần thứ ba đưa quân vào Campuchia giúp lực lượng cách mạng Campuchia lật đổ và ngăn chặn chế độ diệt chủng Pol Pot, giúp Campuchia hồi sinh. Từ năm 1993 đến nay, quan hệ Việt Nam – Campuchia không ngừng được củng cổ và phát triển về mọi mặt. Hai bên đã có nhiều chuyến thăm viếng cấp cao, đặc biệt là chuyến thăm chính thức Campuchia của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tháng 3/2005, hai bên đã nhất trí phương châm phát triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới theo hướng “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Tháng 10 năm 2005, Thủ tướng Hun Sen sang thăm chính thức Việt Nam, hai nước đã ký Hiệp định bổ sung Hiệp định hoạch định biên giới Quốc gia năm 1985. Vào chuyến thăm chính thức Campuchia của Thủ tướng Phan Văn Khải năm 2006 cũng đã đạt được một số thỏa thuận quan trọng góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước lên một tầm cao mới.
Hợp tác trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng: được hai nước chú trọng đẩy mạnh. Hội nghị hợp tác phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam – Campuchia lần thứ nhất (tháng 9 năm 2004) và Hội nghị lần thứ 2 (tháng 9 năm 2005) đã đánh dấu một cơ chế hợp tác mới giữa các tỉnh giáp biên giới nhằm đảm bảo an ninh biên giới hai nước.
Hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật: hai nước đã thành lập Ủy Ban hỗn hợp về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật vào tháng 4 năm 1994. Tại mỗi kỳ họp của Ủy Ban hỗn hợp, hai nước kiểm điểm việc thực hiện các kế hoạch hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, quân sự, an ninh... đồng thời đưa ra các kế hoạch mới cho những năm tiếp theo.
Hợp tác giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh giáp biên giới và các thành phố có quan hệ kết nghĩa cũng được đẩy mạnh, góp phần củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống tốt đẹp.
Bên cạnh hợp tác song phương, hai bên tích cực đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế như hợp tác trong Ủy Hội sông Mêkông (MRC), Tiểu vùng sông MêKông mở rộng (GMS), Chương trình phát triển các vùng nghèo liên quốc gia dọc Hành lang Đông Tây (WEC), Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawady – Chao Praya – MêKông (ACMECS), Tứ giá phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia - Mianma (CLMV), Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia.
1.2. Mối quan hệ thương mại Việt Nam – Campuchia và một số hiệp định hợp tác kinh tế thương mại quan trọng giữa hai nước
Trong lĩnh vực thương mại, hai nước đã thành lập Ủy Ban hỗn hợp về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật vào tháng 4 năm 1994. Đến nay Ủy Ban này đã tiền hành được 11 kỳ họp. Tại mỗi kỳ họp của Ủy ban hỗn hợp, hai nước kiểm điểm việc thực hiện các kế hoạch hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, thương mại, quân sự, an ninh..., đồng thời đưa ra các kế hoạch mới cho những năm tiếp theo.
Hơn nữa, hàng năm hai bên tổ chức các diễn đàn doanh nghiệp để doanh nghiệp hai bên có điều kiện tiếp xúc trao đổi và hợp tác kinh tế với nhau qua đó thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước. Diễn đàn gần đây nhất là Diễn đàn doanh nghiệp gồm 4 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar vào ngày 10/12/2009 tại Nha Trang, Khánh Hòa. Tại diễn đàn đã có nhiều ký kết thành công giữa các doanh nghiệp bốn nước về viễn thông và dây cáp điện. Gần đây nhất, có hội chợ triển lãm hàng Việt Nam tại Campuchia với sự tham gia của hơn 200 doanh nghiệp Việt Nam nhằm giới thiệu sản phẩm thuộc nhiều lĩnh vực như thực phẩm chế biến, công nghệ phẩm, dệt may, da giày, hàng kim khí điện máy, vật liệu xây dựng… Bên lề triển lãm sẽ diễn ra các cuộc hội thảo về chất lượng hàng hóa và ký kết hợp đồng thương mại giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các đối tác nước chủ nhà.
Trên lĩnh vực kinh tế thương mại, hai bên nhất trí tăng cường phối hợp, hợp tác trong việc xúc tiến thương mại và xây dựng thêm các chợ biên giới nhằm thúc đẩy và tạo thuận lợi cho thương mại dịch vụ ở khu vực biên giới hai nước tăng trưởng nhanh và mạnh; tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, hàng giả, tiền giả qua biên giới hai nước. Hai bên thống nhất thúc đẩy hợp tác trên một số lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, thủy điện, giao thông vận tải, khai tác khoáng sản, dầu khí, trông cây cao su, du lịch.
Bảng 1.2: Thống kê xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường Campuchia
Đơn vị: triệu USD
Năm
Xuất
khẩu
Tốc độ tăng (%)
Nhập
khẩu
Tốc độ tăng (%)
Tổng kim ngạch
Tốc độ tăng (%)
2005
536
--
156,6
--
692,6
--
2006
765,1
42,7
169,4
8,1
934,5
34,9
2007
991
29,5
202,2
9,3
1.193
27,6
2008
1.431
44,4
210
3,8
1.640,6
37,5
2009
1.146
-19.9
186,2
-0,12
1.333,1
81,3
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Ta có thể thấy, xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh qua các năm, duy chỉ có năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia có phần hạn chế. Tuy nhiên, Việt Nam luôn là nước xuất siêu sang Campuchia và ngày càng xuất siêu nhiều hơn. So với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam luôn ở vị thế áp đảo.
Bảng 1.3: Những mặt hàng chính Việt Nam xuất sang Campuchia năm 2009
Đơn vị: USD
STT
Tên hàng
Tháng 12
12 tháng/2009
1
Hàng hải sản
1.484.511
17.244.635
2
Hàng rau quả
255.142
3.491.506
3
Bánh kẹo các SP từ ngũ cốc
3.811.021
36.432.032
4
Xăng dầu các loại
54.071.004
454.881.265
5
Hóa chất
266.207
2.910.073
6
SP hóa chất
2.251.532
24.473.639
7
Chất dẻo nguyên liệu
474.697
5.638.945
8
SP từ chất dẻo
3.920.284
39.960.900
9
SP từ Cao su
305.730
3.147.969
10
Gỗ & SP gỗ
85.091
1.699.211
11
Giấy và SP từ giấy
1.239.839
17.693.715
12
Hàng dệt may
3.192.267
31.692.232
13
SP Gốm sứ
931.460
8.245.196
14
Thủy tinh & các SP từ thủy tinh
107.108
3.397.426
15
Dây điện, dây cáp điện
560.644
7.291.554
16
Sắt thép các loại
14.942.226
129.281.999
17
SP từ sắt thép
4.458.278
51.982.326
18
Máy móc, thiết bị, dụng cụ PT khác
2.694.976
38.845.115
19
Phương tiện vận tải và phụ tùng
808.436
10.004.948
…
…
…
Tổng kim ngạch xuất khẩu
122.585.013
1.146.930.905
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Những mặt hàng chính mà Việt Nam xuất sang Campuchia đều là những mặt hàng Việt Nam có thể mạnh xuất khẩu như nông sản, thực phẩm chế biến, các mặt hàng công nghiệp nhẹ. Điều đó cho thấy, Việt Nam có điều kiện để gia tăng xuất khẩu sang thị trường Campuchia hơn nữa trong thời gian tới.
Bảng 1.4: Những mặt hàng nhập khẩu chính từ Campuchia năm 2009
Đơn vị: USD
STT
Tên hàng
Tháng 12
12 tháng/2009
01
Nguyên phụ liệu thuốc lá
7.342.250
02
Cao su
11.594.701
75.362.430
03
Gỗ & SP gỗ
4.190.824
39.753.702
04
SP từ kim loại thường khác
719.679
2.605.527
05
Hàng Thủy sản
320.775
...
...
…
…
Tổng kim ngạch nhập khẩu
25.018.464
186.231.750
(Nguồn: Tổng cục Hải quan)
Bên cạnh đó, theo bảng 1.4, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ Campuchia các loại nguyên liệu phục vụ sản xuất. Điều đó cho thấy quan hệ xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Campuchia là quan hệ bổ sung cho nhau.
Nhận thức rõ những lợi ích trong quan hệ song phương Việt Nam – Campuchia, trong thời gian qua, Chính Phủ cả hai nước đã có nhiều biện pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn và khuyến khích hoạt động hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam – Campuchia.
Chính Phủ hai nước đã chính thức phê duyệt về việc nâng cấp và mở thêm các cửa khẩu để tạo thuận lợi cho các hoạt động phát triển kinh tế và văn hóa của hai nước. Theo như đã nhất trí, cửa khẩu Tịnh Biên (An Giang, Việt Nam) – Phnôm Den (Ta Keo, Campuchia) sẽ là cửa khẩu quốc tế; các cửa khẩu Bình Diệp (Long An, Việt Nam) – Prey Voir (Svay Rieng, Campuchia); Kà Tum (Tây Ninh, Việt Nam) – Chan Moul (Kompong Cham, Campuchia); Tràng Riệc (Tây Ninh, Việt Nam) – Da (Kompong Cham, Campuchia) và cửa khẩu Tống Lê Chân (Tây Ninh – Việt Nam) – Sa Tum (Kompong Cham, Campuchia) là những cửa khẩu chính. Ngoài ra, hai bên nhất trí mở cửa khẩu phụ thuộc tỉnh Long An, tiếp giáp với Sre Barang, thuộc tỉnh Svay Rieng, Campuchia.
Thủ tướng Chính Phủ hai nước tính đến nay đã quyết định thành lập 11 khu kinh tế cửa khẩu, với tổng diện tích các khu kinh tế cửa khẩu này là hơn 7200 km2 với dân số khoảng 2.354 ngàn người. Trong đó mới đây nhất, vào ngày 20/03/2010, Thủ tướng Chính Phủ đã quyết định khánh thành Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Hoa Lư. Đây được coi là một cầu nối giao lưu phát triển kinh tế và văn hóa chiến lược của Việt Nam và Campuchia. Các khu kinh tế cửa khẩu đã đóng góp 34,4% kim ngạch xuất nhập khẩu, 6% thu ngân sách; 10,2 % thuế suất nhập khẩu của 23 khu kinh tế cửa khẩu cả nước (tính đến năm 2007).
Bên cạnh đó, Bộ Thương Mại Việt Nam cũng thường xuyên tổ chức các Hội Chợ Thương Mại Việt Nam tại Campuchia. Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp tiếp xúc và tìm kiếm cơ hội kinh doanh với các đối tác Campuchia. Để nhằm xúc tiến thương mại Việt Nam – Campuchia, Văn phòng Chính Phủ đã ký văn bản số 4434/VPCP-KTTH, đống ý cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa dịch vụ sang Campuchia thu ngoại tệ mạnh như USD bằng tiền mặt được áp dụng thuế suất, thế giá trị gia tăng bằng 0%, được khấu trừ hoàn toàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, với điều kiện doanh nghiệp phải được Ngân Hàng Nhà Nước cho phép nộp USD vào tài khoản.
Tính đến nay, Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Thương nghiệp Campuchia đã ký các văn bản quan trọng sau nhằm thúc đẩy và phát triển thương mại:
Hiệp định Thương Mại Việt Nam – Campuchia (năm 1998)
Hiệp định vận chuyển hàng hóa quá cảnh (năm 2000)
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (26/11/2001)
Hiệp định mua bán và trao đổi hàng hóa và dịch vụ thương mại tại
khu vực biên giới giữa hai nước (26/11/2001)
Hiệp định về chống buôn lậu và vận chuyển hàng hóa trái phép qua
biên giới Việt Nam – Campuchia (tháng 8 năm 2002)
Hiệp định miễn thị thực Việt Nam – Campuchia (4/11/2008)
Hiệp định về quá cảnh hàng hóa giữa Việt Nam và Campuchia
(4/11/2008)
Hiệp định đường bộ Việt Nam – Campuchia (30/09/2009)
Hiệp định vận tải đường thủy Việt Nam – Campuchia (18/12/2009)
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Campuchia
1.3.1. Các nhân tố quốc tế
Đây là các nhân tố nằm ngoài phạm vi điều khiển của Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam, có thể kể đến các nhân tố:
- Môi trường kinh tế: Tình hình phát triển kinh tế của thị trường Campuchia có ảnh hưởng tới nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng Campuchia, do đó có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của thị trường Campuchia là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập của dân cư, tình hình lạm phát, tình hình lãi suất.
- Môi trường luật pháp: Tình hình chính trị hợp tác quốc tế được biển hiện ở xu thế hợp tác giữa các quốc gia. Điều này dẫn đến sự hình thành các khối kinh tế, chính trị của một nhóm các quốc gia do đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Campuchia và Việt Nam là hai nước láng giềng tốt, đã ký kết nhiều hiệp định kinh tế thương mại quan trọng và đều là thành viên là ASEAN, WTO, đó là điều kiện tốt giúp môi trường luật pháp của hai nước có sự tương đồng cao.
- Môi trường văn hóa xã hội: Đặc điểm và sự thay đổi của văn hóa – xã hội của thị trường xuất khẩu có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của khác hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiêp. Nói một cách khác, đây là yếu tố về thị hiếu tiêu dùng của nước xuất khẩu, yếu tố hết sức quan trọng trong việc quyết định cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, mẫu mã và chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sau thị trường Campuchia.
- Môi trường cạnh tranh: Mức độ cạnh tranh quốc tế biểu hiện ở sức ép từ phía các doanh nghiệp, các công ty quốc tế đối với doanh nghiệp Việt Nam khi cùng tham gia vào thị trường Campuchia. Sức ép này ngày càng lớn thì ngày càng khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập, duy trě vŕ mở rộng thị trường xuất khẩu của mình tại Campuchia. Hàng hóa Thái Lan là đối thủ cạnh tranh rất lớn với hàng hóa Việt Nam trong thị trường Campuchia. Theo như đánh giá của người tiêu dùng Campuchia thì hàng hóa Thái Lan có chất lượng và mẫu mã đẹp hơn nhưng giá thành cao hơn hàng hóa Việt Nam.
1.3.2. Các nhân tố quốc gia
- Nguồn lực trong nước: Một nước có nguồn lực dồi dào là điều kiện thuận lợi để cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112283.doc