Chuyên đề Thanh tra giáo dục

Công tác thanh tra, kiểm tra là một lĩnh vực, một khâu trong hoạt động quản lý, trong quá trình quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về giáo dục nói riêng. Ở bất kỳ một nhà nước nào khi hình thành đều thực hiện chức năng thiết yếu trong cơ quan quản lý nhà nước, đó là hoạt động thanh tra, kiểm tra. Hoạt động này nhằm thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát một cách hữu hiệu việc thực thi quyền lực nhà nước. Có nghĩa là, nhà nước xuất hiện thì tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra; công tác thanh tra, kiểm tra cũng hình thành, gắn liền với nó như một tất yếu lịch sử.

Ở nước ta, sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập “Ban thanh tra đặc biệt” với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt. Trải qua các giai đoạn lịch sử và do yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý nhà nước, hệ thống bộ máy quản lý nhà nước nên tổ chức thanh tra cũng có những thay đổi về cơ cấu, tên gọi khác nhau để phù hợp với xu thế đổi mới chung của đất nước trong từng thời kỳ. Phải đến năm 1956, Nhà nước ta mới có nghị định thành lập cơ quan thanh tra ở địa phương và các bộ, ngành. Kể từ đó đến nay, nhất là từ khi có Pháp lệnh thanh tra 01/ 04/1990 cùng với các quyết định, nghị định, thông tư hướng dẫn về công tác thanh tra trong một số ngành, lĩnh vực (các văn bản quy định thanh tra trong một số ngành, lĩnh vực), hoạt động thanh tra của các bộ, ngành (hay gọi là thanh tra chuyên ngành) được hình thành, phát triển và phát huy tác dụng trong việc kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội trong đó có thanh tra giáo dục.

Trong chuyên đề “thanh tra giáo dục” chúng ta sẽ nghiên cứu những vấn đề cụ thể sau:

- Khái niệm thanh tra giáo dục.

- Vai trò, ý nghĩa của công tác thanh tra giáo dục.

- Mục đích, nhiệm vụ của thanh tra giáo dục.

- Các nguyên tắc của thanh tra giáo dục.

- Đối tượng, nội dung, phương pháp thanh tra giáo dục.

- Quy trình tiến hành thanh tra giáo dục.

Đặc biệt, mỗi học viên sau khi học xong chuyên đề này cần nắm vững nghiệp vụ thanh tra giáo dục mầm non, thanh tra giáo dục phổ thông. Cụ thể là:

- Thanh tra toàn diện một trường mầm non, một trường tiểu học, một trường trung học.

- Thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên mầm non, của giáo viên phổ thông.

- Thanh tra việc thực hiện Luật phổ cập giáo dục tiểu học.

- Biết cách đánh giá, xếp loại giáo dục từng bậc học, cấp học.

- Biết cách viết báo cáo và trình bày báo cáo khi có đoàn thanh tra cấp trên về kiểm tra.

 

doc102 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Thanh tra giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giáo trình thanh tra giáo dục Công tác thanh tra, kiểm tra là một lĩnh vực, một khâu trong hoạt động quản lý, trong quá trình quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về giáo dục nói riêng. ở bất kỳ một nhà nước nào khi hình thành đều thực hiện chức năng thiết yếu trong cơ quan quản lý nhà nước, đó là hoạt động thanh tra, kiểm tra. Hoạt động này nhằm thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát một cách hữu hiệu việc thực thi quyền lực nhà nước. Có nghĩa là, nhà nước xuất hiện thì tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra; công tác thanh tra, kiểm tra cũng hình thành, gắn liền với nó như một tất yếu lịch sử. ở nước ta, sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập “Ban thanh tra đặc biệt” với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt. Trải qua các giai đoạn lịch sử và do yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý nhà nước, hệ thống bộ máy quản lý nhà nước nên tổ chức thanh tra cũng có những thay đổi về cơ cấu, tên gọi khác nhau để phù hợp với xu thế đổi mới chung của đất nước trong từng thời kỳ. Phải đến năm 1956, Nhà nước ta mới có nghị định thành lập cơ quan thanh tra ở địa phương và các bộ, ngành. Kể từ đó đến nay, nhất là từ khi có Pháp lệnh thanh tra 01/ 04/1990 cùng với các quyết định, nghị định, thông tư hướng dẫn về công tác thanh tra trong một số ngành, lĩnh vực (các văn bản quy định thanh tra trong một số ngành, lĩnh vực), hoạt động thanh tra của các bộ, ngành (hay gọi là thanh tra chuyên ngành) được hình thành, phát triển và phát huy tác dụng trong việc kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội … trong đó có thanh tra giáo dục. Trong chuyên đề “thanh tra giáo dục” chúng ta sẽ nghiên cứu những vấn đề cụ thể sau: - Khái niệm thanh tra giáo dục. - Vai trò, ý nghĩa của công tác thanh tra giáo dục. - Mục đích, nhiệm vụ của thanh tra giáo dục. - Các nguyên tắc của thanh tra giáo dục. - Đối tượng, nội dung, phương pháp thanh tra giáo dục. - Quy trình tiến hành thanh tra giáo dục. Đặc biệt, mỗi học viên sau khi học xong chuyên đề này cần nắm vững nghiệp vụ thanh tra giáo dục mầm non, thanh tra giáo dục phổ thông. Cụ thể là: - Thanh tra toàn diện một trường mầm non, một trường tiểu học, một trường trung học. - Thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên mầm non, của giáo viên phổ thông. - Thanh tra việc thực hiện Luật phổ cập giáo dục tiểu học. - Biết cách đánh giá, xếp loại giáo dục từng bậc học, cấp học. - Biết cách viết báo cáo và trình bày báo cáo khi có đoàn thanh tra cấp trên về kiểm tra. Chương I Những vấn đề chung về thanh tra giáo dục 1. Khái quát chung về thanh tra giáo dục Hơn năm mươi năm qua, kể từ khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Nhà nước ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi trọng vai trò, vị trí của giáo dục; giáo dục được coi là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giữ nước và xây dựng đất nước. Đặc biệt, trong những năm gần đây khi đất nước chuyển mình đổi mới, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, hơn lúc nào hết giáo dục - đào tạo có vai trò, vị trí xứng đáng. Giáo dục đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đề cập đến trong các văn kiện quan trọng: Hiến pháp 1992, Hội nghị lần thứ hai BCH TƯ Đảng khoá VIII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001). Gần đây, toàn ngành Giáo dục và - Đào tạo đang triển khai thực hiện Quyết định số 201/2001 QT-TTg ngày 28-12/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010”. Trong quyết định này Chính phủ xác định thời cơ và thách thức, những mặt đã làm được và chưa làm được trong mười lăm năm đổi mới sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo, đặc biệt đề ra mục tiêu của giáo dục - đào tạo cần đạt được trong những năm đầu của thế kỉ XXI. Đó là “tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng phương thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện giấo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”; “thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý thuyết gắn liền với thực tiễn, kết hợp giáo dục gia đình với giáo dục xã hội”. Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trong trường học…xây dựng qui hoạch đào tạo nhân lực theo phương thức kết hợp đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Như vậy giáo dục từ trước đến nay , đặc biệt trong giai đoạn hiện nay vô cùng quan trọng và cấp bách, là quốc sách hàng đầu. Để sự nghiệp giáo dục và đào tạo đạt chất lượng và hiệu quả cao đòi hỏi mọi ngành, mọi cấp, toàn thể xã hội tham gia dưới sự quản lý của nhà nước, trong đó công tác thanh tra, kiểm tra giáo dục là một trong những nội dung của quản lý nhà nước về giáo dục. 2. Khái niệm thanh tra giáo dục 2.1. Khái niệm về thanh tra: Trong bất kì hoạt động quản lý ở cấp nào, để đảm bảo đạt hiệu quả cao những mục tiêu đã đề ra, đòi hỏi phải tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra. Như vậy, thanh tra, kiểm tra là một chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý nhà nước, nếu không thanh tra, kiểm tra công tác quản lý sẽ không đạt được kết quả tốt, hay nói cách khác quản lý sẽ mất đi một chức năng thiết yếu và không thể đem lại kết quả tốt. Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là phương phức đảm bảo bằng pháp chế, tăng cường kỉ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong phạm vi chức năng của mình, các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm tự kiểm tra việc thực hiện các quyết định của mình và thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức hữu quan và các cá nhân có trách nhiệm (gọi chung là cơ quan, tổ chức và cá nhân) nhằm phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, và công dân. (Điều 1- Pháp lệnh thanh tra 1990). Như vậy hoạt động thanh tra là xem xét tại chỗ, làm rõ những việc làm đúng, sai đối với những vụ việc và hành vi của người thừa hành công vụ trong việc thực hiện công tác quản lý của mình. Trong hoạt động quản lý thanh tra còn nhằm cung cấp thông tin phản hồi giúp người quản lý nắm bắt, điều chỉnh công tác quản lý của mình, đặc biệt làm cho hoạt động quản lý ngày càng phong phú đa dạng, đồng thời uốn nắn kịp thời và điều chỉnh cơ chế, chính sách chưa hợp lý, tránh sự xơ cứng, rập khuôn máy móc dẫn đến sự quản lý trì trệ, góp phần làm cho bộ máy trong sạch vững mạnh, xây dựng nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. (Bài giảng nghiệp vụ thanh tra) Hoạt động thanh tra trong cơ quan nhà nước có đặc trưng: - Thanh tra là một hoạt động thuộc chức năng của quyền hành pháp. Mục đích chung nhất của hoạt động thanh tra là hoạt động tự điều chỉnh trong nội bộ cơ quan nhà nước. - Ngoài hệ thống thanh tra nhà nước còn có hệ thống thanh tra chuyên ngành, đó là những nhánh của hoạt động thanh tra gắn liền với một ngành, một lĩnh vực nhất định xuất phát từ tính chất phức tạp về chuyên môn nghiệp vụ của các ngành, các lĩnh vực khác nhau trong hệ thống quản lý nhà nước như thanh tra nhân dân, thanh tra quốc phòng, thanh tra công an, thanh tra tài chính, thanh tra lao động, thanh tra y tế, thanh tra giáo dục... Hệ thống thanh tra nhà nước bao gồm: - Thanh tra nhà nước. - Thanh tra Bộ, Uỷ ban nhà nước, cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). - Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương. - Thanh tra sở. - Thanh tra huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh. Chức năng thanh tra nhà nước ở xã, phường, thị trấn do uỷ ban nhân dân cùng cấp trực tiếp đảm nhận. Thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các tổ chức thanh tra nhà nước khác chịu sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp và sự chỉ đạo của tổ chức nhà nước cấp trên. Sơ đồ 1: Hệ thống thanh tra nhà nước Thanh tra nhà nước Thanh tra Bộ ngành uỷ ban nhà nước, cơ quan thuộc chính phủ Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Thanh tra Sở Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh 2.2. Thanh tra giáo dục: Trong từ điển giáo dục học, thanh tra giáo dục được hiểu là công tác kiểm soát, xét tại chỗ những việc làm của cơ quan, cơ sở giáo dục để đánh giá: - Việc chấp hành pháp luật về giáo dục. - Việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục; quy chế chuyên môn, quy chế thi cử; cấp văn bằng, chứng chỉ; việc thực hiện các quy định về điều kiện cần thiết bảo đảm chất lượng giáo dục ở các cơ sở giáo dục. - Xác định, kết luận, kiến nghị việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về hoạt động giáo dục; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về giáo dục. - Kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về giáo dục; đề nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách và quy định của nhà nước về giáo dục. ở đây, chúng ta cần hiểu thanh tra giáo dục là thanh tra chuyên ngành về giáo dục. Thanh tra giáo dục thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý về giáo dục, nhằm đảm bảo việc thi hành pháp luật, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa và xử lý vi phạm, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân trong lĩnh vực giáo dục (Điều 1. Nghị định số 101/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2002 của Chính phủ về việc tổ chức và hoạt động của Thanh tra giáo dục). Như vậy, thanh tra nhà nước là hoạt động quản lý nhà nước do các chủ thể có thẩm quyền (tổ chức thanh tra) tiến hành kiểm tra, xem xét, kiểm soát hoạt động của các tổ chức cá nhân có hoạt động liên quan đến lĩnh vực giáo dục đối với việc thực hiện pháp luật, nhằm phát huy những nhân tố tích cực đồng thời phát hiện, phòng ngừa, xử lý các vi phạm nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Hay nói cách khác thanh tra giáo dục là chức năng thiết yếu của các cấp quản lý giáo dục - đào tạo, thực hiện quyền kiểm tra, xem xét, kiểm soát của cơ quan quản lý giáo dục- đào tạo cấp trên đối với cơ quan tổ chức và cá nhân cấp dưới có hoạt động liên quan đến lĩnh vực giáo dục. Trên cơ sở đó, đánh giá việc thực hiện mục đích nhiệm vụ giáo dục của đối tượng thanh tra nhằm bảo đảm pháp chế tăng cường kỷ luật, nâng cao hiệu lực quá trình giáo dục, góp pần cải tiến, hoàn thiện cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả cuả quá trình giáo dục - đào tạo. - Thanh tra giáo dục là thanh tra chuyên ngành, thực hiện quyền thanh tra nhà nước trong phạm vi quản lý về giáo dục không chỉ nhằm mục đích phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn các sai phạm trong hoạt động giáo dục mà còn phát huy nhân tố tích cực, giúp đối tượng thanh tra hoàn thành tốt nhiệm vụ, xử lý khi cần thiết nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra. Hệ thống tổ chức của thanh tra giáo dục bao gồm: - Trước đây tổ chức thanh tra giáo dục được xây dựng theo các cấp quản lý giáo dục và đào tạo, gồm ba cấp: + Thanh tra Bộ giáo dục và Đào tạo. + Thanh tra Sở giáo dục và Đào tạo. + Thanh tra Phòng giáo dục và Đào tạo huyện, quận, cấp tương đương. (Nghị định số 358- HĐBT ngày 28-09-1992 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục) - Hiện nay theo Nghị định số 101/2002/NĐ-CP ngày 10-12-2002 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục thì hệ thống tổ chức thanh tra giáo dục bao gồm: + Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo. + Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Ngoài ra còn có hoạt động thanh tra giáo dục ở cấp huuyện do Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo trực tiếp phụ trách và theo sự chỉ đạo nghiệp vụ của thanh tra Sở. Phân biệt khái niệm thanh tra giáo dục và kiểm tra: Trong thực tiễn giáo dục và đào tạo ở nhà trường phổ thông thường tồn tại các hoạt động: thanh tra giáo dục, kiểm tra thi đua, kiểm tra nội bộ. Vậy khái niệm thanh tra, kiểm tra có đựợc phân biệt để vận dụng trong quá trình quản lý trường học. - Giống nhau: đều thống nhất ở mục đích, nội dung và chức năng của hoạt động thanh tra, kiểm tra thi đua và kiểm tra nội bộ. + Về mục đích: cả ba hoạt động này đều đi sâu kiểm tra, xem xét, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức và cá nhân liên quan đến lĩnh vực giáo dục - đào tạo nhằm phát huy những nhân tố tích cực đồng thời phát hiện, ngăn ngừa và giúp đỡ đối tượng hoàn thành tốt nhiệm vụ. + Về chức năng: đều tạo lập kênh thông tin phản hồi trong quản lý giáo dục. + Về nội dung công việc (hoạt động): đó là một thành tố và là thành tố quan trọng trong quản lý giáo dục - đào tạo, đó là việc kiểm tra đánh giá kết quả của một quá trình, một hoạt động giáo duc - đào tạo. - Khác nhau: Các hoạt động trên có mặt thống nhất với nhau, nhưng không đồng nhất với nhau mà có sự khác nhau về tính chất ( chủ yếu tư cách pháp nhân), về tổ chức, hoạt động, đối tượng và cách thức xử lý. Chính vì vậy trong công tác quản lý giáo dục các cán bộ quản lý giáo dục cần nắm vững và có sự phân biệt giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra thi đua, kiểm tra nội bộ để thấy rõ mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù. Thanh tra, kiểm tra thi đua, kiểm tra nội bộ có mối quan hệ với nhau: kiểm tra thi đua, kiểm tra nội bộ cung cấp thông tin tin cậy cho thanh tra, thanh tra sử dụng số liệu, kết luận, đánh giá của kiểm tra thi đua và kiểm tra nội bộ. Đó là những cứ liệu cần thiết, những cơ sở quan trọng của hoạt động thanh tra.Điểm khác biệt về mức độ của thanh tra, kiểm tra thi đua, kiểm tra nội bộ được thể hiện qua bảng sau: Ngoài ra còn có thanh tra nhân dân trong các trường học, các cơ sở giáo dục. Đó là một tổ chức do quần chúng bầu ra ở cấp cơ sở, hoạt động chủ yếu là giám sát, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhà giáo, cán bộ công nhân viên trong các tổ chức cơ quan, trường học, các cơ sở giáo dục; đồng thời kiểm tra, đánh giá đúng đắn việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước về giáo dục ở các đơn vị giáo dục cơ sở. Nghị định số 241/HĐBT (nay là Thủ tướng Chính phủ) ngày 5 tháng 8 năm 1991 quy định về tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân và Thông tư liên tịch số 62/TT- LT ngày 22 tháng 5 năm 1992 của Bộ và Công đoàn ngành Giáo dục và Đào tạo. ( Xem bảng ở trang 3 về hoạt động, đối tượng, xử lý) Cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của thanh tra giáo dục 3.1. Cơ sở lý luận. - Trong khoa học quản lý giáo dục, thanh tra giáo dục là tạo lập mối liên hệ ngược (kênh thông tin phản hồi). Thanh tra giáo dục có nguồn gốc từ khái niệm kiểm tra, một thành tố quan trọng trong mối quan hệ quản lý giáo dục và do đó quá trình thanh tra giáo dục cũng diễn ra theo các bước cơ bản của công tác kiểm tra. - Theo lý thuyết điều khiển học thì quản lý là quá trình điều khiển và điều chỉnh, bao gồm những mối liên hệ thông tin thuận và mối liên hệ thông tin ngược (xem sơ đồ 1). + Mối liên hệ thuận a (thông tin từ hệ quản lý đến hệ bị quản lý): chủ yếu là truyền đạt thông tin về mục tiêu, kế hoạch, quyết định quản lý… đến người thực hiện. + Mối liên hệ ngược gồm: * Mối liên hệ ngược ngoài b (thông tin từ hệ bị quản lý đến hệ quản lý): phản ánh sự tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ, khó khăn, thuận lợi, tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị…của những người thực hiện đến người quản lý. * Mối liên hệ ngược trong b’ (thông tin từ hệ bị quản lý trở lại chính hệ bị quản lý), phản ánh khả năng tiếp nhận, sự tự điều chỉnh để tự hoàn thiện, phát triển chính mình. Mối liên hệ ngược (ngoài, trong) là nền tảng của sự điều chỉnh gồm hai quá trình: Điều chỉnh (của hệ quản lý) và tự điều chỉnh (của hệ bị quản lý), chúng liên quan mật thiết và thống nhất với nhau. Chính thanh tra giáo dục đã tạo lập mối liên hệ ngược (trong, ngoài) trong quản lý giáo dục. Thanh tra cung cấp những thông tin đã được xử lý, đánh giá chính xác. Đó là nguồn thông tin cần thiết, cực kỳ quan trọng để hệ quản lý điều khiển, điều chỉnh hoạt động quản lý có hiệu quả hơn, đồng thời hệ bị quản lý, đối tượng thanh tra tự điều chỉnh ý thức hành vi và hoạt động của mình càng tốt hơn. Thanh tra giáo dục là dạng kiểm tra có tính chất quản lý nhà nước về giáo dục của cơ quan quản lý giáo dục cấp trên đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân cấp dưới. Đó là công cụ đo lường và điều chỉnh bao gồm các yếu tố (bước) cơ bản sau: + Xác lập chuẩn (tiêu chuẩn, yêu cầu) và phương pháp đo kết quả hoạt động giáo dục đào tạo của tổ chức và cá nhân. + Đo lường kết quả hoạt động giáo dục - đào tạo. + So sánh mức độ phù hợp của kết quả với chuẩn đã quy định (văn bản có tính chất pháp quy). + Thực hiện hành động điều chỉnh gồm: hành động phát huy, hành động uốn nắn và hành động xử lý. Ngoài ra để giúp cho các tổ chức và thành viên thanh tra giáo dục đạt chất lượng và hiệu quả, thanh tra giáo dục cần dựa trên các cơ sở khoa học khác như: + Tâm lý học quản lý, đặc biệt tâm lý học thanh tra. + Giáo dục học. + Xã hội học giáo dục. + Kinh tế học giáo dục. + Khoa học quản lý giáo dục. 3.2. Cơ sở thực tiễn của thanh tra giáo dục. Do yêu cầu của thực tiễn giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới kinh tế nước ta hiện nay, để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngành giáo dục và đào tạo tạo bước chuyển biến về mọi mặt; tạo nguồn nhân lực có chất lượng. Thực tế hiện nay chúng ta đã hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến sau đại họcvới các loại hình đào tạo khác nhau bao gồm giáo dục công lập, bán công, dân lập, tư thục; với phương pháp chính quy và không chính quy rất đa dạng về mục tiêu; kế hoạch đào tạo, nội dung, phương pháp đào tạo khác nhau…Do đó lãnh đạo và quản lý giáo dục phảI được thanh tra, kiểm tra nhằm đánh giá, phát hiện điều chỉnh, phòng ngừa và giúp đỡ các hoạt động giáo dục và dạy học của các tổ chức và cá nhân trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm cảI tiến cơ chế quản lý và hoàn thiện chương trình quản lý phù hợp và có hiệu quả hơn. Đồng thời do thực tiễn sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta hiện nay cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện về mọi mặt từ cơ chế quản lý, mục tiêu, nội dung, phương pháp… Đặc biệt chúng ta vừa mở rông, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, vừa phải đảm bảo cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn đạt được mục tiêu đó trong ngành giáo dục đào tạo phảI thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học của thầy và trò; cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy học và giáo dục của nhà trường; trình độ, trách nhiệm của giáo viên, cán bộ, học sinh không đồng đều, hoàn toàn không thể phó mặc cho sự tự giác của họ, các chế độ chính sách cho giáo viên, cán bộ công nhân viên chưa đảm bảo và còn nhiều vấn đề bất cập giữa các cơ sở giáo dục… Hơn nữa, hiện nay trình độ quản lý quản lý giáo dục của các cán bộ quản lý các cấp học, bậc học chưa theo kịp với thực tiễn và nhu cầu phát triển khi nền kinh tế đang chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chưa phối hợp tốt và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và xã hội; chậm đổi mới cả về tư duy và phương thức quản lý; chậm đề ra các định hướng chiến lược và chính sách vĩ mô đúng đắn để xử lý mối tương quan lớn giữa quy mô, chất lượng và hiệu quả trong giáo dục. Các văn bản pháp quy về giáo dục chưa được ban hành kịp thời, quá nhiều và có chỗ còn chồng chéo (vừa thiếu lại vừa thừa, hình thức chưa tương xứng nội dung…). Công tác thanh tra giáo dục còn yếu và chưa được quan tâm đúng mức. Do đó thanh tra giáo dục góp phần giúp đỡ và điều chỉnh kịp thời những sai sót, lệch lạc, đồng thời động viên mọi người làm tốt công việc của mình. Thanh tra thường xuyên tạo nên nền nếp kỷ cương trong ngành giáo dục và đào tạo. - Bên cạnh những kinh nghiệm tổ chức, hoạt động, xây dựng nội dung thanh tra giáo dục của nước ta trong những năm qua, chúng ta còn nghiên cứu kinh nghiệm thanh tra chuyên ngành giáo dục ở một số nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức, Tây ban Nha, Rumani… Đặc biệt từ năm học 2002-2003 trong khuôn khổ dự án hợp tác với thanh tra giáo dục nước cộng hoà Pháp, Bộ Giáo dục - Đào tạo sẽ triển khai chương trình bồi dưỡng năng lực thanh tra chuyên môn cho các giáo viên ở bậc học phổ thông đang đảm nhiệm công tác thanh tra, đánh giá phân loại giáo viên. Mặt khác trong công tác thanh tra giáo dục sắp tới, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã, đang và sẽ chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học tiếp tục tổ chức thí điểm “thanh tra đào tạo” hướng vào các nội dung giám sát hưỡng dẫn đào tạo, đề xuất xem xét, kết luận các vụ việc, kiến nghị biện pháp giảI quyết khiếu nại, tố cáo và giúp thủ trưởng tiếp công dân theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo (Trần Bá Giao. Những định hướng trong công tác thanh tra giáo dục năm học 2002-2003). 3.3. Cơ sở pháp lý. Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, nền giáo dục Việt Nam có bước chuyển biến đáng kể, vượt bậc cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả. Điểm nổi bật của sự nghiệp giáo dục đào tạo Việt Nam đã được xã hội thừa nhận với 20 sự kiện như là diện mạo của thế kỷ XX. Đó là một nền giáo dục cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, một nền giáo dục “vì con người Việt Nam và bằng sức mạnh con người Việt Nam”. Đó là một nền giáo dục thấu suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, một nền giáo dục “cho mọi người được học và cho học tập suốt đời” với quy mô, chất lượng và hiệu quả đáp ứng yêu cầu thực tiễn của các giai đoạn cách mạng Việt Nam, và phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục hiện đại trên thế giới. Một trong những thành tựu của giáo dục và đào tạo của nước ta hơn 50 năm qua, đặc biệt hơn 15 năm đổi mới, chúng ta từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về giáo dục đào tạo. Đó là Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em (12/08/1991), Luật phổ cập giáo dục tiểu học (1991), Chương III của Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua tại kỳ họp lần thứ XI – Quốc hội khoá IX, lần đầu tiên chúng ta đã xây dựng một văn bản pháp quy về giáo dục hoàn chỉnh, hệ thống. Đó là Luật giáo dục thông qua Quốc hội khoá X kỳ họp thứ IV ngày 02/12/1998 và có hiệu lực ngày 01/06/1999. Phải khẳng định rằng những văn bản pháp quy về giáo dục góp phần đảm bảo sự nghiệp giáo dục phát triển đúng hướng và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đó là cơ sở quan trọng thực hiện quản lý nhà nước về giáo dụctheo pháp chế của nước taphù hợp với các văn bản quốc tế đã được ký kết. Đó là cơ sở hình thành các văn bản mang tính pháp lý về thanh tra giáo dục. Mặt khác thanh tra giáo dục là thanh tra chuyên ngành nên phảI dựa trên pháp lệnh thanh trănm 1990 của Chủ tịch Hội đồng nhà nước (nay là Thủ tướng chính phủ) và quyết định của Tổng thanh tra nhà nước số 1776/TTNN ngày 21/12 năm 1996 về việc ban hành quy chế hoạt động của đoàn thanh tra. Thanh tra giáo dục của nước ta trong những năm gần đây dựa trên văn bản pháp quy của ngành về giáo dục và đào tạo, trực tiếp tiến hành tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục dựa trên các quyết địnhcủa chính phủ và các quyết định, thông tư, chỉ thị, điều lệ, trường mầm non, điều lệ trường tiểu học, điều lệ trường trung học,… Các văn bản trên là cơ sở pháp lý giúp cho việc tổ chức, tiến hành hoạt động thanh tra giáo dục đánh giá và xếp loại một cách chính xác và có hiệu quả. Một trong những văn bản pháp quy về Thanh tra giáo dục trong những năm gần đây cần có sự quan tâm, nghiên cứu quán triệt trong ngành giáo dục và đào tạo đó là: - Nghị định số 101 ngày 10/12/ 2002 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục. - Thông tư số 13/ GD & ĐT ngày 04/08/1997 của Bộ giáo dục và đào tạo hướng dẫn hoạt độngthanh tra trong bậc học Mầm non. - Thông tư số 13/TT- GD & ĐT ngày 12/09/1994 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc hưỡng dẫn tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục tiểu học theo quy chế ban hành tại quyết định 478/QĐ ngày 11/03/1993 của Bộ giáo dục và đào tạo. - Thông tư của Bộ giáo dục và đào tạo số 12/GD - ĐT ngày 04/08/1997 hướng dẫn hoạt động thanh tra trong bậc học trung học phổ thông. Như vậy, thanh tra giáo dục là một bộ phận, hệ thống thanh tra chuyên ngành, thực hiện quyền thanh tra nhà nước về giáo dục và đào tạo. Do đó thanh tra giáo dục phải dựa cơ sở pháp lý đó là: các nghị định của chính phủ về thanh tra nói chung và thanh tra giáo dục nói riêng, Pháp lệnh thanh tra của Hội đồng nhà nước (nay là chính phủ), các thông tư, quy chế, hướng dẫn thanh tra tổ chức, hoạt động giáo dục trong bậc học Mầm non, bậc học Tiểu học và bậc học Trung học phổ thông. Hoạt động thanh tra giáo dục chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời. Khôn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTHANHT~12.doc
Tài liệu liên quan