Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, nó phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nhiều thu nhập nhất song cũng mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng. Trong bối cảnh môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số Ngân hàng Thương mại Cổ phần đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Tuy nhiên không thể đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng , thông tin sai lệch, tìm cách lách luật mà vẫn phải áp dụng đúng quy trình tín dụng để làm giảm các khoản nợ xấu, tránh tổn thất cho ngân hàng. Đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu, mà bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu và rộng với nền kinh tế thế giới nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng cũng bị tác động, chịu những ảnh hưởng không hề nhỏ.
Để không bị “lép vế trên sân nhà”, thời gian qua các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách, đổi mới toàn diện. Thế nhưng khi mà công cuộc cải cách của các ngân hàng Việt Nam mới đi được chặng đầu thì “cơn bão” khó khăn kinh tế đã ập đến. Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã phải trải qua những biến động dồn dập và đối mặt với những thách thức lớn. Nửa đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng mười bảy năm qua. Khi lạm phát đã bắt đầu hạ nhiệt nhờ hiệu quả của các chính sách tiền tệ và tài khoá thắt chặt thì các ngân hàng và doanh nghiệp trong nước lại một phen lao đao vì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ nước Mỹ. Ảnh hưởng xấu từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu đã khiến cho hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn và bế tắc. Nguy cơ gia tăng nợ xấu ngân hàng là khó có thể tránh khỏi.
Những khoản nợ không thu hồi được cả gốc và lãi đúng thời hạn càng lớn, tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng, nhất là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, có lúc đã đe dọa tới tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Hơn bao giờ hết, công tác quản lý nợ xấu đang được các NHTM đặt lên hàng đầu.
Trong một thời gian thực tập ngắn tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam , đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, một khu vực trọng điểm của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, được tìm hiều về những hoạt động của Sở giao dịch, nhất là hoạt động tín dụng, em đã chọn đề tài :” Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm chuyên đề thực tập.
Kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương :
Chương I. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV
Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV
55 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1035 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, nó phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nhiều thu nhập nhất song cũng mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng. Trong bối cảnh môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số Ngân hàng Thương mại Cổ phần đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Tuy nhiên không thể đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng , thông tin sai lệch, tìm cách lách luật … mà vẫn phải áp dụng đúng quy trình tín dụng để làm giảm các khoản nợ xấu, tránh tổn thất cho ngân hàng. Đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu, mà bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu và rộng với nền kinh tế thế giới nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng cũng bị tác động, chịu những ảnh hưởng không hề nhỏ.
Để không bị “lép vế trên sân nhà”, thời gian qua các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách, đổi mới toàn diện. Thế nhưng khi mà công cuộc cải cách của các ngân hàng Việt Nam mới đi được chặng đầu thì “cơn bão” khó khăn kinh tế đã ập đến. Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã phải trải qua những biến động dồn dập và đối mặt với những thách thức lớn. Nửa đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng mười bảy năm qua. Khi lạm phát đã bắt đầu hạ nhiệt nhờ hiệu quả của các chính sách tiền tệ và tài khoá thắt chặt thì các ngân hàng và doanh nghiệp trong nước lại một phen lao đao vì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ nước Mỹ. Ảnh hưởng xấu từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu đã khiến cho hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn và bế tắc. Nguy cơ gia tăng nợ xấu ngân hàng là khó có thể tránh khỏi.
Những khoản nợ không thu hồi được cả gốc và lãi đúng thời hạn càng lớn, tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng, nhất là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, có lúc đã đe dọa tới tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Hơn bao giờ hết, công tác quản lý nợ xấu đang được các NHTM đặt lên hàng đầu.
Trong một thời gian thực tập ngắn tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam , đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, một khu vực trọng điểm của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, được tìm hiều về những hoạt động của Sở giao dịch, nhất là hoạt động tín dụng, em đã chọn đề tài :” Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm chuyên đề thực tập.
Kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương :
Chương I. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV
Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV
Chương I. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của
Ngân hàng thương mại
1.1. Những vấn đề cơ bản về nợ xấu của NHTM
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Theo ngân hàng Trung ương Liên minh châu Âu
Nợ xấu trong các NHTM bao gồm:
*Những khoản nợ không thể thu hồi được :
- Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ nợ
- Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ.
- Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ.
- Những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh,thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
* Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng.
Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có thời hạn thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy đủ như:
Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng phần còn lại không thể được đền bù được trong thời gian thỏa thuận.
Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế chấp ở ngân hàng không được chấp nhận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ không thể trả nợ ngân hàng đầy đủ.
Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi hoàn ít hơn dư nợ.
1.1.1.2. Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc
Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày;hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Về cơ bản,nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) hiện đang được áp dụng phổ biến trên thế giới.
1.1.1.3. Theo định nghĩa của Việt Nam
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước ngày 22/4/2005 về phân loại nợ,trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng; và quyết định số 18/2007 QĐ – NHNN ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định 493 thì nợ xấu được định nghĩa như sau:
Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3( nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4( nợ nghi ngờ), nhóm 5( nợ có khả năng mất vốn). Nợ xấu theo định nghĩa của Việt Nam cũng được xác định dựa theo hai yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ đáng lo ngại.
Qua định nghĩa về nợ xấu của các tổ chức trên ta có thể hiểu khái quát nợ xấu là các khoản nợ mà khách hàng không trả gốc và lãi đúng hạn hoặc không trả nợ như đã cam kết dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng.
1.1.2. Phân loại:
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng; và quyết đinh số 18/2007 QĐ – NHNN ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định 493 thì nợ xấu được xác định dựa trên cả yếu tố thời hạn và khả năng thu hồi.
Nhóm 3 ( nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản này.
Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 điều này.
Nợ xấu thuộc nhóm này được coi là các khoản nợ có khả năng thu hồi cao nhất. Ngân hàng sẽ trích lập một tỷ lệ DPRR cho nợ xấu nhóm này là 20% dư nợ của nhóm.
Nhóm 4( Nợ nghi ngờ) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 điều này.
Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi thấp hơn so với các khoản nợ của nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào những khoản nợ mà ngân hàng có sự nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỷ lệ trích lập DPRR cho nợ xấu thuộc nhóm này là 50% tổng dư nợ của nhóm.
Nhóm 5 ( Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời gian trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần hai.
Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 điều này.
Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi như bằng 0, do vậy tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tương ứng là 100% tổng dư nợ của nhóm.
Còn riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của TCTD.
1.1.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM:
- Tổng số nợ xấu : Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó,nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu. Và như vậy, nó chưa phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả năng thu hồi của ngân hàng.
- Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/tổng dư nợ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ 100 đơn vị tiền tệ khi ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định khó có khả năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng rủi ro càng cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì ngân hàng bị coi là có chất lượng tín dụng yếu kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng tín dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các chỉ số này phản ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng và ngược lại.
Ngoài ra tùy theo tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng hoặc quốc gia trong từng thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu để đánh giá, so sánh thực trạng nợ xấu nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.
1.1.4. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu:
1.1.4.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng :
Nợ xấu làm giảm doanh thu của ngân hàng, làm giảm hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng, tác động rất tiêu cực đối với hoạt động của cả hệ thống. Do vậy, dự báo nợ xấu phát sinh từ các dấu hiệu định tính và định lượng là một công việc có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Đó là:
Sự đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hàng.
Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra trong tương lại, ví dụ như sáp nhập.
Cho vay do khách hàng hứa duy trì một khoản tiền lớn trong ngân hàng.
Không xác định rõ kế hoạch hoàn trả đối với từng khoản cho vay.
Hồ sơ tín dụng không đầy đủ.
Do cạnh tranh có thể cấp tín dụng cho khách hàng để họ khởi chạy sang ngân hàng khác dù biết khoản vay có thể dẫn đến rủi ro.
Cơ cấu tín dụng không hợp lý, cho vay tập trung vào một số lĩnh vực nóng trong nền kinh tế như đầu tư vào bất động sản …
1.1.4.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng:
Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng hóa, thu hồi công nợ chậm hơn dự tính.
Việc thanh toán tiền không đúng kế hoạch. Người vay tiền liên tục trả nợ không đúng kỳ hạn. Kỳ hạn của khoản vay liên tục bị thay đổi,khách hàng luôn yêu cầu được gia hạn nợ.
Các số liệu và tài liệu cần thiết cung cấp cho ngân hàng không được kê khai chính xác và nộp không theo kế hoạch. Các tài liệu quan trọng phải nộp cho ngân hàng như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính … liên tục bị trì hoãn một cách bất thường. Số liệu kê khai, hay số liệu về doanh thu và dòng tiền thực tế bị nghi ngờ là có sự chênh lệch khá lớn so với mức dự kiến khi khách hàng xin vay.
Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn,giá trị tài sản đảm bảo thấp hơn so với khi định giá cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, hay bán, trao đổi hoặc bị mất.
Những thay đổi bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn.
Những thay đổi trong cơ cấu vốn của người vay (tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu), khả năng thanh toán.
Hoạt động kinh doanh của khách hàng thua lỗ trong một hay nhiều năm liên tục, đặc biệt thể hiện qua các chỉ số ROA,ROE hay thu nhập trước thuế và lãi vay(EBIT).
Những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong số dư tiền gửi của khách hàng.
1.1.5. Tác động của nợ xấu
1.1.5.1. Đối với ngân hàng thương mại
Nợ xấu ảnh hưởng hầu hết tới các hoạt động của NHTM, thậm chí số dư nợ xấu lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng.
Trước hết, nợ xấu làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Nợ xấu hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của NHTM. Khi nợ xấu tăng cao,thu nhập của ngân hàng giảm, thậm chí không còn lợi nhuận do không thu hồi được nợ, lại phát sinh thêm chi phí trích lập dự phòng, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và các chi phí khác liên quan.
Thứ hai, nợ xấu sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao, vượt quá giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế thì uy tín của NHTM trong nước và quốc tế giảm sút nghiêm trọng.
Thứ ba, nợ xấu làm ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động chủ yếu của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay. Nếu các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn, không thu hồi được hoặc thu hồi không đầy đủ nợ gốc và lãi đã cho vay. Trong khi đó,ngân hàng vẫn phải thanh toán đầy đủ, đúng hạn đối với các khoản tiền gửi. Sự mất cân đối trên ảnh hưởng rất lớn tới tính thanh khoản của ngân hàng và ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của ngân hàng.
Thứ tư, nợ xấu cản trở quá trình hội nhập của các NHTM. Nợ xấu tác động trực tiếp tới khả năng tài chính của NHTM khi phân tích đánh giá tình hình tài chính hoạt động ngân hàng, là yếu tố bất lợi trong cạnh tranh, trong quá trình hội nhập và phát triển.
1.1.5.2. Đối với nền kinh tế
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế. Vì thế nợ xấu của NHTM ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế tác động gián tiếp thông qua mối quan hệ hữu cơ: Ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế. Theo đó, nợ xấu làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Khả năng khai thác và đáp ứng vốn, khả năng dung ứng các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế sẽ bị hạn chế khi nợ xấu phát sinh. Mặt khác, nợ xấu phát sinh do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế do vốn ứ động,sản xuất kinh doanh bị đình trệ.
1.2. Quản lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết quản lý nợ xấu tại NHTM
Quản lý nợ xấu là quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược,các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn,hiệu quả và phát triển bền vững;trong đó tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu,đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh từ đó làm tăng doanh thu,giảm chi phí nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2.2. Nội dung quản lý nợ xấu của NHTM
1.2.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh
Theo Quyết định (QĐ) 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của thống đốc NHNN về việc ban hành Quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 493, nợ xấu chiếm tỷ lệ khoảng từ 2-5% là một tỷ lệ chấp nhận được. NHTM cần tập trung vào biện pháp ngăn chặn nợ xấu sau để có được một tỷ lệ nợ xấu thấp:
Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng
Ngân hàng phải tiến hành hoạt động thẩm định đối với dự án vay, khách hàng vay trước khi vay, trong cho vay và sau khi cho vay. Ngân hàng dùng các biện pháp để kiểm tra tính khả thi và sinh lợi của dự án,khả năng tài chính của khách hàng đi vay, thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động của dự án sau khi giải ngân để đưa ra những nhận xét về khả năng thu hồi vốn, cả gốc và lãi từ dự án. Khi đến kì hạn trả nợ, nếu thấy khách hàng cố tình chây ỳ, lừa đảo, không có thiện ý hoàn trả nợ… thì ngân hàng phải tiến hành thu nợ. Còn nếu khách hàng có thiện ý trả nợ nhưng gặp khó khăn tạm thời thì ngân hàng có thể tiến hành các biện pháp hỗ trợ như giảm lãi suất, gia hạn nợ, tiếp tục để khách hàng thu lợi nhuận trả ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa,hạn chế rủi ro phải phù hơp với khả năng huy động vốn và kiểm soát rủi ro,bảo đảm an toàn hệ thống.
Yêu cầu các TCTD phân tích, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong từng quy trình nghiệp vụ để triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa, ngăn chăn rủi ro, rà soát,lựa chọn cán bộ có đủ năng lực,trình độ,phẩm chất,đạo đức để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ; có cơ chế ủy quyền, quy định trách nhiệm đối với cán bộ phụ trách và tác nghiệp. Theo chức năng nhiệm vụ của mình, các đơn vị thuộc NHNN hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo,kiểm soát,xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro để nâng cao khả năng quản lý thị trường ngoại hối, phát hiện kịp thời những rủi ro tiềm ăn để có biện pháp xử lý thích hợp.
Xây dựng chiến lược hoạt động hợp lý
Chiến lược hoạt động của Ngân hàng một mặt phải mang lại thu nhập cho ngân hàng, mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngân hàng xây dựng và triển khai sản phẩm, dịch vụ truyền thống và hiện đại phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Rủi ro luôn đi kèm với hoạt động của bất kỳ ngân hàng nào, chúng ta có thể làm hạn chế tổn thất của chúng, chứ không thể ngăn ngừa chúng xuất hiện. Ngân hàng phải xây dựng danh mục tài sản với các rủi ro có thể chấp nhận được và danh mục nguồn vốn với chi phí hợp lý, phù hợp với khả năng thanh khoản và thực tế ngành kinh tế,vùng kinh tế và cả nền kinh tế. Ngân hàng phải xác định và tận dụng lợi thế của mình trong việc xác định chiến lược hoạt động ngắn hạn và cả trung dài hạn đồng thời hạn chế những mặt còn chưa tốt trong nội tại ngân hàng. Ngân hàng cũng có thể triển khai các hoạt động bằng cách kết hợp với các ngân hàng,các định chế tài chính khác để cùng nhau khai thác khách hàng, khai thác ngành và vùng kinh tế, khai thác thị trường dựa trên những lợi thế có sẵn của mỗi bên.
Triển khai công cụ kiểm soát rủi ro mới:
Ngân hàng phải tiến hành phân loại khách hàng, chấm điểm tín dụng với từng đối tượng khách hàng dựa trên các tiêu chí định tính cũng như định lượng. Đa phần các ngân hàng đều có tiêu chí xếp loại và phân loại nợ theo nhóm khách hàng để phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng.Ngoài ra, ngân hàng có thể kiểm soát tín dụng bằng giới hạn tín dụng, giải ngân kèm chứng từ hàng hóa … để hạn chế tổn thất cho vay.
1.2.2.2. Xử lý nợ xấu:
- Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và tái cơ cấu lại nợ
- Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu – Biến nợ thành chứng khoán
- Xử lý tài sản đảm bảo, đòi nợ bên bảo lãnh
- Bán các khoản nợ
- Bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro
- Sự trợ giúp của Chính phủ
1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý nợ xấu
1.2.3.1. Nhân tố chủ quan
- Nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng bao gồm cơ chế quản lý tín dụng và công nghệ ngân hàng,cơ cấu tổ chức.
Thứ nhất, cơ chế quản lý tín dụng của ngân hàng có thể được biểu hiện qua quy trình nghiệp vụ ngân hàng,cơ cấu cho vay. Nếu cơ chế quản lý tín dụng được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đắn thì sẽ mang lại hiệu quả cho ngân hàng. Ngược lại, công tác quản lý không được thực hiện đúng mực tới các bộ phận, phòng ban của ngân hàng, không tạo được sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống sẽ làm giảm thu nhập cho ngân hàng, nợ xấu vì thế mà tăng lên.
Thứ hai, công nghệ ngân hàng là một hệ thống quan trọng trong công tác điều hành phát triển ngân hàng và đem lại lợi ích cho khách hàng, ngân hàng. Với khách hàng, công nghệ sẽ đem đến cho khách hàng sự hài lòng nhờ vào những dịch vụ ngân hàng có chất lượng tốt, thời gian giao dịch được rủi ngắn, an toàn, bảo mật. Với công nghệ hiện đại, ngân hàng sẽ tạo ra đột phá trong khai thác sản phẩm, dịch vụ cả về số lượng và chất lượng, gián tiếp khẳng định được đẳng cấp, tên tuổi, hình ảnh của ngân hàng. Dưới góc độ quản lý, nhờ có công nghệ mà việc quản lý nội bộ trong ngân hàng sẽ chặt chẽ hiệu quả hơn, quản trị rủi ro tốt hơn,làm giảm nợ xấu. Còn nếu công nghệ ngân hàng mà lạc hậu, tất yếu sẽ dẫn đến nhiều hậu quả như không theo kịp ngân hàng trong nước và quốc tế, làm giảm uy tín, hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, cũng là nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu.
Thứ ba, nếu ngân hàng được cơ cấu tổ chức chặt chẽ,thống nhất hợp lý giữa các cấp; tăng cường chất lượng quản lý, quản trị rủi ro thì sẽ làm giảm nợ xấu trong quá trình tín dụng, giảm thiệt hại cho ngân hàng. Ngược lại , tổ chức lỏng lẻo sẽ tạo điều kiện cho nhân viên tín dụng cùng cấp trên hợp thức hóa hồ sơ , làm giả mạo giấy tờ tín dụng, làm phát sinh nợ xấu.
Nhân tố chủ quan từ phía khách hàng vay :
Khi doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để triển khai, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, với một dự án đầy khả thi và với tư duy quản lý, kinh doanh tiên tiến thì sẽ mang lại hiệu quả cho dự án, đảm bảo trả đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Còn với tư duy kinh doanh hạn chế thì dù với một dự án đầy triển vọng thì cũng sẽ thất bại làm gia tăng nợ xấu cho ngân hàng.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có phương án kinh doanh cụ thể khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản thì không nghiều. Tuy nhiêm những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
1.2.3.2. Nhân tố khách quan:
- Môi trường kinh tế - xã hội
Với những nền kinh tế nhỏ bé, sản xuất công nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu là thực phẩm đơn giản như dầu thô, may gia công,… thì rất dễ bị tổn thương khi nền kinh tế thế giới biến động mạnh. Nếu thế giới ít biến động mạnh thì hoạt động của các doanh nghiệp cũng được đảm bảo,khả năng trả nợ cho ngân hàng càng cao. Còn thế giới biến động mạnh mẽ : giá cả, tỷ giá, hạn ngạch,thuế … thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là có nguy cơ phá sản, mất khả năng thanh toán cho ngân hàng.
Một đất nước ổn định về chính trị, có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh trong nước và xuất nhập khẩu. Ngược lại, một đất nước bất ổn , biểu tình, đình công, bị cấm vận,… thì nền kinh tế chắc chắn sẽ kiệt quệ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới các thành phần kinh tế và làm nợ xâu của ngân hàng cũng gia tăng lên rất nhiều.
Môi trường tự nhiên:
Đối với nền kinh tế lệ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp thì rất nhạy cảm với sự thay đổi thời tiết, của môi trường tự nhiên, mà điển hình là Việt Nam. Nếu thời tiết thuận lợi, cây trồng đạt năng suất,vật nuôi không bị dịch bệnh, khỏe mạnh … thì khả năng thu hồi vốn từ người đi vay là rất lớn. Nhưng nếu môi trường tự nhiên không thuận lợi, chịu ảnh hưởng thiên tai,lũ lụt,hạn hán thì dự án sẽ thất bại, không thu hồi được vốn, nợ xấu phát sinh.
Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.1. Tổng quan về Sở giao dịch I – BIDV:
2.1.1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2.1.1.1. Lịch sử hình thành:
Chi nhánh sở giao dịch I Ngân hàng ĐT&PT VN được thành lập ngày 28/3/1991 theo quyết định số 76 QĐ/TCCB của Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN. Là một chi nhánh đặc biệt thực nghiệm thành công mô hình mới là đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính , thực thi có hiệu quả nhiệm vụ chiến lược của BIDV.Từ ngày đầu thành lập, Sở giao dịch có 2 phòng và 1 tổ nghiệp vụ;chủ yếu làm nhiệm vụ cấp phát ngân sách đầu tư từ các dự án.
Hiện nay chi nhánh sở giao dịch I có trụ sở chính tại tòa tháp A Vincom, số 191 Bà Triệu- Hai Bà Trưng- Hà Nội.
Cho tới nay chi nhánh sở giao dịch I đã trải qua 19 năm hoạt động và phát triển, đạt được nhiều bước tiến vượt bậc cụ thể:
Trong bốn năm đầu tiên (1991-1994), tuy còn nhiều bước đi chập chững nhưng chi nhánh sở giao dịch 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách cho các dự án đầu tư của Bộ, Ngành với số vốn cấp phát hàng trăm tỷ đồng. Theo đó chi nhánh sở giao dịch 1 đã phát huy vai trò kiểm tra, giám sát sử dụng vốn ngân sách của chủ đầu tư, thực hiện phương châm cấp phát đúng địa chỉ, đúng đối tượng, đúng với thiết kế và khối lượng thi công, góp phần tiết kiệm chống lãng phí trong xây dựng cơ bản.
Giai đoạn tiếp theo 1996-2000: Với 167 cán bộ nhân viên, Sở giao dịch đã có 12 phòng nghiệp vụ,1 chi nhánh khu vực,2 phòng giao dịch và 7 quỹ tiết kiệm. Thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của ngân hàng thương mại , phục vụ đông đảo khách hàng thuộc mọi tầng lớp kinh tế và dân cư. Chi nhánh sở giao dịch 1đã chuyển hướng mạnh mẽ sang hoạt động kinh doanh, hạch toán kinh tế chủ động, tự trang trải. Chi nhánh sở giao dịch 1 đã đạt được n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3845.doc