Quá trình hoạt động kinh doanh luôn vận động và biến đổi không ngừng theo các quy luật. Sự vận động đó là một tất yếu khách quan do sự biến động của môi trường. Trong một mối quan hệ hữu cơ thì một tổ chức kinh doanh là một mắt xích trong cả một hệ thống, do đó khi môi trường thay đổi đều dẫn tới những biến đổi trong hoạt động kinh doanh của tổ chức. Tuy nhiên sự vận động đó của quá trình kinh doanh không phải là ngẫu nhiên, bất tuân quy luật mà nó là những biểu hiện của sự vận động của các quy luật khách quan trong các điều kiện cụ thể. Như vậy hướng vận động của hoạt động kinh doanh cũng có thể nhận thức được nếu chúng ta nhận thức được biểu hiện của các quy luật khách quan chi phối hoạt động kinh doanh của tổ chức.
Trong quá trình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, đặc biệt là nước ta mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường không ít các doanh nghiệp tỏ ra lúng túng, làm ăn thua lỗ thậm chí còn bị phá sản, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước còn đang bỡ ngỡ với cơ chế mới, môi trường kinh doanh mới và biến đổi không ngừng. Thực tế kinh doanh trong cơ chế thị trường luôn luôn vận động, biến đổi, phá vỡ sự cứng nhắc của kế hoạch hoá ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần thiết phải hoạch định và triển khai một công cụ kế hoạch hoá linh hoạt để có thể thích ứng được với sự biến động của môi trường kinh doanh, đó là chiến lược kinh doanh.
Để tồn tại và phát triển trong kinh doanh, doanh nghiệp cần phải thiết lập những hướng đi cho mình, nghĩa là vạch ra xu thế vận động cho tổ chức và tuân theo những xu thế vận động đó. Quá trình trên thực chất là việc hoạch định chiến lược kinh doanh, vạch ra những hướng đích trong tương lai để đạt tới. Do đó chiến lược kinh doanh có vai trò quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát trển của bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào. Không có chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp không hiểu mình sẽ phát triển như thế nào trong tương lai, không có những hướng đích cụ thể để nỗ lực đạt được và quá trình kinh doanh như vậy mang đậm tính tự phát, đối phó tình huống. Các tổ chức kinh doanh đều cần phải thiết lập chiến lược kinh doanh.
Tuy nhiên không phải hiện nay tất cả các tổ chức kinh doanh đều nhận thức được vai trò quan trọng này của chiến lược kinh doanh, do đó những kế hoạch , phương án kinh doanh được thiết lập thường thiếu tính thực tiễn. Để xây dựng được một chiến lược kinh doanh phù hợp đòi hỏi doanh nghiệp phải có những nhận thức đầy đủ về vai trò của chiến lược kinh doanh và phương thức để hoạch định nó. Công ty xây dựng Ngân hàng cũng không nằm ngoài số đó.
Nước ta đang thời kỳ mở cửa cho nên các công ty nước ngoài đầu đầu tư vốn và công nghệ hiện đại vào, các công ty này có sưc cạnh tranh cao hơn rất nhiều so với các công ty trong nước, và hơn nữa là hàng hoá nhập khẩu vừa rẻ vừa có chất lượng cao dẫn tới cạnh tranh gay gắt, cho nên các công ty trong nước muốn tồn tại và phát triển thì phải lập cho mình một chiến lược kinh doanh đúng đắn, và vận dụng chiến lược đó vào công ty mình một cách phù hợp. Công ty xây dựng Ngân hàng cũng vậy không thể chỉ lập cho mình những kế hoạch ngắn hạn như trước đây mà phải lập cho mình một chiến lược đúng đắn, phải biết nâng cao chất lượng công trình để tạo sức cạnh tranh, phải giữ uy tín đối với mọi khách hàng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của chiến lược kinh doanh đối với sự phát triển của doanh nghiệp cùng với thực tiễn sau một thời gian thực tập tại Công ty xây dựng Ngân hàng, em đã quyết định chọn đề tài: “Phương hướng và giải pháp để xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh ở Công ty xây dựng Ngân hàng”.
Với nội dung như vậy em xin trình bày bố cục chuyên đề thực tập như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng xây dựng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và các ý tưởng chiến lược đã hình thành tại Công ty xây dựng Ngân hàng
Chương III: Một số đề xuất để xây dựng chiến lược kinh doanh của Công ty xây dựng Ngân hàng
65 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Phương hướng và giải pháp để xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh ở Công ty xây dựng Ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
Quá trình hoạt động kinh doanh luôn vận động và biến đổi không ngừng theo các quy luật. Sự vận động đó là một tất yếu khách quan do sự biến động của môi trường. Trong một mối quan hệ hữu cơ thì một tổ chức kinh doanh là một mắt xích trong cả một hệ thống, do đó khi môi trường thay đổi đều dẫn tới những biến đổi trong hoạt động kinh doanh của tổ chức. Tuy nhiên sự vận động đó của quá trình kinh doanh không phải là ngẫu nhiên, bất tuân quy luật mà nó là những biểu hiện của sự vận động của các quy luật khách quan trong các điều kiện cụ thể. Như vậy hướng vận động của hoạt động kinh doanh cũng có thể nhận thức được nếu chúng ta nhận thức được biểu hiện của các quy luật khách quan chi phối hoạt động kinh doanh của tổ chức.
Trong quá trình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, đặc biệt là nước ta mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường không ít các doanh nghiệp tỏ ra lúng túng, làm ăn thua lỗ thậm chí còn bị phá sản, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước còn đang bỡ ngỡ với cơ chế mới, môi trường kinh doanh mới và biến đổi không ngừng. Thực tế kinh doanh trong cơ chế thị trường luôn luôn vận động, biến đổi, phá vỡ sự cứng nhắc của kế hoạch hoá ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần thiết phải hoạch định và triển khai một công cụ kế hoạch hoá linh hoạt để có thể thích ứng được với sự biến động của môi trường kinh doanh, đó là chiến lược kinh doanh.
Để tồn tại và phát triển trong kinh doanh, doanh nghiệp cần phải thiết lập những hướng đi cho mình, nghĩa là vạch ra xu thế vận động cho tổ chức và tuân theo những xu thế vận động đó. Quá trình trên thực chất là việc hoạch định chiến lược kinh doanh, vạch ra những hướng đích trong tương lai để đạt tới. Do đó chiến lược kinh doanh có vai trò quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát trển của bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào. Không có chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp không hiểu mình sẽ phát triển như thế nào trong tương lai, không có những hướng đích cụ thể để nỗ lực đạt được và quá trình kinh doanh như vậy mang đậm tính tự phát, đối phó tình huống. Các tổ chức kinh doanh đều cần phải thiết lập chiến lược kinh doanh.
Tuy nhiên không phải hiện nay tất cả các tổ chức kinh doanh đều nhận thức được vai trò quan trọng này của chiến lược kinh doanh, do đó những kế hoạch , phương án kinh doanh được thiết lập thường thiếu tính thực tiễn. Để xây dựng được một chiến lược kinh doanh phù hợp đòi hỏi doanh nghiệp phải có những nhận thức đầy đủ về vai trò của chiến lược kinh doanh và phương thức để hoạch định nó. Công ty xây dựng Ngân hàng cũng không nằm ngoài số đó.
Nước ta đang thời kỳ mở cửa cho nên các công ty nước ngoài đầu đầu tư vốn và công nghệ hiện đại vào, các công ty này có sưc cạnh tranh cao hơn rất nhiều so với các công ty trong nước, và hơn nữa là hàng hoá nhập khẩu vừa rẻ vừa có chất lượng cao dẫn tới cạnh tranh gay gắt, cho nên các công ty trong nước muốn tồn tại và phát triển thì phải lập cho mình một chiến lược kinh doanh đúng đắn, và vận dụng chiến lược đó vào công ty mình một cách phù hợp. Công ty xây dựng Ngân hàng cũng vậy không thể chỉ lập cho mình những kế hoạch ngắn hạn như trước đây mà phải lập cho mình một chiến lược đúng đắn, phải biết nâng cao chất lượng công trình để tạo sức cạnh tranh, phải giữ uy tín đối với mọi khách hàng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của chiến lược kinh doanh đối với sự phát triển của doanh nghiệp cùng với thực tiễn sau một thời gian thực tập tại Công ty xây dựng Ngân hàng, em đã quyết định chọn đề tài: “Phương hướng và giải pháp để xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh ở Công ty xây dựng Ngân hàng”.
Với nội dung như vậy em xin trình bày bố cục chuyên đề thực tập như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng xây dựng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và các ý tưởng chiến lược đã hình thành tại Công ty xây dựng Ngân hàng
Chương III: Một số đề xuất để xây dựng chiến lược kinh doanh của Công ty xây dựng Ngân hàng
Chương I
một số vấn đề lý luận về chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp
I. Khái luận chung về CLKD
1.Khái niệm và phân loại CLKD
1.1. Khái niệm CLKD
Trong lao động hợp tác, điều kiện để phối hợp tốt nhất hành động (hoạt động) của mọi bộ phận, cá nhân trong doanh nghiệp ở bất kỳ thời điểm nào là phải xác định trước mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể mang tính thống nhất cho toàn doanh nghiệp cũng như các bộ phận, cá nhân bên trong đều đứng trước rất nhiều mục tiêu và cách thức hành động khác nhau. Vấn đề là doanh nghiệp sẽ lựa chọn các mục tiêu nào trong số rất nhiều mục tiêu cần đạt và doanh nghiệp sẽ chọn con đường đi nào trong số rất nhiều con đường có thể đạt tới mục tiêu?
Chiến lược được hiểu một cách chung nhất là phương thức để thực hiện mục tiêu. Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về chiến lược kinh doanh tuỳ theo góc độ và khía cạnh nghiên cứu mà ta có thể đưa ra một số quan điểm về chiến lược kinh doanh như sau:
-Theo cách tiếp cận truyền thống, chiến lược kinh doanh được coi là một bản kế hoạch thống nhất, toàn diện mang tích chất phối hợp nhằm đảm bảo cho những mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp được thực hiện. Điều này có nghĩa là chiến lược kinh doanh của một tổ chức là kết quả của một quá trình hợp lý, đưa ra những bản kế hoạch cụ thể. Chiến lược kinh doanh bao hàm việc ấn định các mục tiêu cơ bản dài hạn của doanh nghiệp đồng thời lựa chọn tiến trình hành động phân bổ các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu đó
Chiến lược kinh doanh là tổng thể các mục tiêu cơ bản dài hạn của doanh nghiệp các chính sách và các giải pháp lớn về sản xuất kinh doanh về tài chính và về giải quyết yếu tố con người, nhằm đưa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển lên trạng thái mới cao hơn về chất.
-Theo cách tiếp cận hiện đại, chiến lược kinh doanh không nhất thiết phải gắn liền với kế hoạch hoá hợp lý mà nó là một trong những dạng thức nào đó trong chuỗi quyết định và hoạt động của công ty, dạng thức này là sự kết hợp yếu tố có dự định từ trước và các yếu tố không dự tính trước.
Chiến lược dự định trước
Chiến lược thực hiện
Chiến lược phi thực hiện
Chiến lược tức thời
Chiến lược có
Cân nhắc
Hình 1: Mô hình chiến lược.
-Theo cách hiểu khác thì chiến lược kinh doanh được coi là một mô thức cho các quyết định và hành động quan trọng của doanh nghiệp, trong đó bao gồm một vài nhân tố, sự kiện mà nhờ đó tổ chức có được sự khác biệt với các tổ chức khác, Như vậy chiến lược kinh doanh thực chất là một sự đồng nhất trong hành động của doanh nghiệp dù có hay không được dự trù trước. Khái niệm này chú trọng đến khía cạnh hành động của tổ chức, một chuỗi các hành động trong sự thống nhất, nhất quán dẫn đến các mục tiêu lựa chọn.
1.2. Phân loại chiến lược kinh doanh
Trong thực tế có rất nhiều cách phân loại chiến lược kinh doanh, tuỳ từng khía cạnh và từng góc độ nghiên cứu mà có những cách phân loại khác nhau.
Với cách tiếp cận mới chúng ta có thể phân loại chiến lược kinh doanh theo cấp độ khác nhau:
1.2.1. Chiến lược cấp Công ty
Chiến lược cấp Công ty là chiến lược bao trùm toàn bộ các chương trình hành động nhằm mục đích xác định:
+Những ngành kinh doanh nào không nên tham gia kinh doanh.
+Xác định kế hoạch phối hợp và phân bổ các nguồn lực giữa các lĩnh vực kinh doanh.
+Dựa vào kỹ thuật phân tích để đánh giá khả năng thực hiện chiến lược, xem xét các chiến lược đang theo đuổi có phù hợp với bối cảnh hoạt động của Công ty.
+Hiện thực hoá nhiệm vụ chiến lược và các mục tiêu chính.
Chiến lược cấp công ty có thể là:
-Chiến lược tập trung,
-Chiến lược hội nhập theo chiều dọc,
-Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm.
Ngoài những chiến lược trên thì còn có các chiến lược như: Chiến lược cắt giảm, chiến lược liên doanh liên kết, chiến lược ổn định, chiến lược thôn tính,...
*Yêu cầu của chiến lược cấp công ty:
-Phải đạt sự cân bằng giữa các lĩnh vực kinh doanh,
-Phải có chiến lược thích hợp cho từng đơn vị kinh doanh trong dài hạn.
1.2.2. Chiến lược cấp doanh nghiệp
Xác định xem Công ty sẽ cạnh tranh như thế nào với những đối thủ cạnh tranh trong ngành. Mỗi doanh nghiệp có thể được tổ chức như một đơn vị kinh doanh chiến lược (SBU-Strategy Business Unit) chuyên kinh doanh một hay một nhóm sản phẩm dịch vụ tương tự nhau. Ban quản trị cấp cao của Công ty thường coi mỗi SBU như là một đơn vị tương đối độc lập có quyền phát triển chiến lược riêng cho mình để hỗ trợ thực hiện chiến lược cấp công ty.
*Yêu cầu:
-Xây dựng chiến lược cạnh tranh trong ngành mà nó đang hoạt động,
-Tìm ra sản phẩm và thị trường cho hoạt động kinh doanh riêng của Công ty.
1.2.3. Chiến lược chức năng
Chiến lược này tìm cách sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lược hiện có nhằm bổ trợ cho việc thực hiện chiến lược cấp doanh nghiệp và chiến lược cấp công ty. Nó bao gồm các chiến lược sau: Chiến lược Marketing, chiến lược nghiên cứu và phát triển, chiến lược vật tư,...
Chú ý: Ba cấp chiến lược trên hợp thành hệ thống chiến lược của công ty kinh doanh đa ngành, trong đó chiến lược cấp thấp hơn bị giới hạn bởi chiến lược cấp trên trực tiếp. Cho nên chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau và cần được phối hợp để đảm bảo sự thành công trên bình diện cả công ty. Do đó, chiến lược cấp dưới hoạch định phải phù hợp với chiến lược cấp trên, hơn nữa nó là bước triển khai của chiến lược cấp trên.
2. Vai trò và nội dung của chiến lược kinh doanh
2.2. Vai trò
Chiến lược kinh doanh có vai trò định hướng cho hoạt động của doanh nghiệp, nó tạo ra những cái đích và vạch ra con đường để đi tới đó. Nó là sự kết hợp giữa quá trình đánh giá các nhân tố bên ngoài với yếu tố bên trong doanh nghiệp, quyết định những hành động nhằm tận dụng cơ hội bên ngoài bằng những ưu điểm của tổ chức, hạn chế bớt ảnh hưởng từ những nguy cơ, thách thức, khắc phục những yếu điểm, hạn chế, tạo ra lợi thế trong quá trình cạnh tranh. Mặt khác, chiến lược kinh doanh là chất keo gắn kết các nhân viên trong tổ chức, nó làm cơ sở cho hoạt động của các thành viên tạo nên sự thống nhất trong hành động, một sức mạnh to lớn thúc đẩy doanh nghiệp tới thành công.
Những khái niệm quản trị chiến lược, chiến lược kinh doanh mới được tiếp cận và nghiên cứu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX , đây là một lĩnh vực nghiên cứu còn nhiều khía cạnh chưa được khai thác tìm hiểu kỹ. Nó là sự kế thừa sự phát triển của các trường phái quản trị như quản trị khoa học, quản trị nguồn lực, tâm lý, hành chính. Việc chiến lược kinh doanh mới được chú trọng vào nửa cuối thế kỷ XX là do hai nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Trong giai đoạn trước khi quy mô của hoạt động kinh doanh chưa phình to, các nhà quản trị còn đủ khả năng bằng trực giác, kinh nghiệm hoạt động nhìn nhận đánh giá định hướng hoạt động của tổ chức. Việc hình thành các chiến lược kinh doanh mang tính tự phát, nó chưa được quan tâm đúng mức để trở thành đối tượng nghiên cứu của bộ môn khoa học. Khi quy mô của hoạt động kinh doanh phát triển lên, với sự tích luỹ về lượng đó đòi hỏi nhà quản trị phải có những cái nhìn dài hơn, rộng hơn, khoa học hơn về hướng phát triển của tổ chức trong tương lai.
Thứ hai: Xuất phát từ biến động của môi trường cùng với thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, với sự xuất hiện của nhiều thành quả khoa học khác trong xã hội loài người thì môi trường kinh doanh của doanh nghiệp cũng biến đổi không ngừng. Sự biến động nhanh chóng của môi trường ngày càng khó kiểm soát gây ra sự chệch hướng trong hoạt động kinh doanh . Khó khăn trên đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích môi trường ngoài, định hướng hoạt động phù hợp với những yếu tố ảnh hưởng đó.
Chính từ những nguyên nhân này, đã thúc đẩy sự ra đời ngành khoa học quản trị chiến lược thì vai trò của chiến lược kinh doanh mới được nhận rõ. Với sự biến động không ngừng của môi trường ngoài thì chiến lược kinh doanh là nhân tố gắn kết hoạt động của doanh nghiệp với nhân tố bên ngoài để đi đến thành công. Chiến lược kinh doanh có vai trò định hướng cho hoạt động của doanh nghiệp, nó tạo ra những cái đích và vạch ra con đường để đi tới đó. Nó là sự kết hợp giữa quá trình đánh giá các nhân tố bên ngoài với yếu tố bên trong doanh nghiệp, quyết định những hành động nhằm tận dụng cơ hội bên ngoài bằng những ưu điểm của tổ chức, hạn chế bớt ảnh hưởng từ những nguy cơ, thách thức , khắc phục những yếu điểm, hạn chế, tạo ra lợi thế trong quá trình cạnh tranh. Mặt khác, chiến lược kinh doanh là chất keo gắn kết các nhân viên trong tổ chức, nó làm cơ sở cho hoạt động của các thành viên tạo nên sự thống nhất trong hành động, một sức mạnh to lớn thúc đẩy doanh nghiệp tới thành công. Một chiến lược kinh doanh phải đạt được sự thống nhất ý kiến trong toàn thể nhân viên, thúc đẩy nỗ lực hành động của từng cá nhân đảm bảo quá trình thực thi chiến lược. Ngoài ra chiến lược kinh doanh định hướng cho tổng thể mọi hoạt động của doanh nghiệp, từ những quyết định có tầm quan trọng đặc biệt như đầu tư phát triển, mở rộng danh mục sản xuất đến các quyết định nhỏ như tuyển mộ nhân viên, trả lương nhân công.
2.2. Những yếu tố cấu thành chiến lược kinh doanh
Một chiến lược kinh doanh được cấu thành từ những yếu tố sau:
+ Quy mô hay lĩnh vực hoạt động trong đó doanh nghiệp nỗ lực đạt được những mục tiêu của nó.
+ Những kỹ năng và nguồn lực của doanh nghiệp sẽ sử dụng để đạt được mục tiêu. Đây được coi là những khả năng đặc thù của doanh nghiệp.
+ Những lợi thế mà doanh nghiệp mông muốn có để chiến thắng đối thủ cạnh tranh trong việc bài trí, sử dụng những khả năng đặc thù của nó như: kỹ năng nguồn lực
+ Kết quả thu được từ cách thức mà doanh nghiệp sử dụng khai thác những khar năng đặc thù của nó. Chiếc chìa khoá cho sự thành công của doanh nghiệp nằm ở giai đoạn này, quá trình lựa chọn một số yếu tố quan hệ nào đó để dựa vào đó doanh nghiệp phân biệt mình với các doanh nghiệp khác.
II. Quy trình hoạch định CLKD
Có nhiều cách thức đã được tổng kết để xây dựng chiến lược ở cấp doanh nghiệp hay cấp đơn vị kinh doanh độc lập.Tuy nhiên, không có một quy trình nào được coi là hoàn hảo mà cần nghiên cứu hoàn thiện tiếp. Tuy cách thức tiến hành có khác nhau, song nội dung của các quy trình này về cơ bản đồng nhất với nhau. Trong thực tế, khi áp dụng người ta thường kết hợp các quy trình. Dưới đây có hai quy trình:
*Quy trình 8 bước hoạch định chiến lược cấp doanh nghiệp.
-Bước 1: Phân tích và dự báo về môi trường kinh doanh, trong đó cốt lõi nhất là phân tích và dự báo về thị trường. Doanh nghiệp cần nhận thức rõ các yếu tố môi trường có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình và đo lường mức độ, chiều hướng ảnh hưởng của chúng.
-Bước 2: Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo về môi trường kinh doanh. Các thông tin tổng hợp kết quả phân tích và dự báo cần được xác định theo hai hướng: Thứ nhất, các thời cơ, cơ hội, thách thức của môi trường kinh doanh. Thứ hai, các rủi ro, cạm bẫy đe doạ, có thể xẩy ra trong môi trường kinh doanh.
-Bước 3: Phân tích và đánh giá đúng thực trạng của doanh nghiệp. Nội dung đánh giá cần bảo đảm tính toàn diện, hệ thống, song các vấn đề cốt yếu cần được tập trung là: Hệ thống tổ chức, tình hình nhân sự, tình trạng tàI chính của doanh nghiệp.
-Bước 4: Tổng hợp kết quả phân tích và đánh giá thực trạng doanh nghiệp theo hai hướng cơ bản là: Thứ nhất, xác định các điểm mạnh, điểm lợi thế trong kinh doanh của doanh nghiệp ; thứ hai, xác định các điểm yếu, các bất lợi trong kinh doanh. Đó là các căn cứ thực tiễn quan trọng nâng cao tính khả thi của chiến lược.
-Bước 5: Xem xét quan điểm, thái độ, nguyện vọng,mục tiêu của người đứng đầu doanh nghiệp (các quản trị viên cấp cao).
-Bước 6: Xác định các mục tiêu chiến lược, các phương án chiến lược.
-Bước 7: So sánh, đánh giá và lựa chọn phương án chiến lược tối ưu cho doanh nghiệp. Cần đánh giá toàn diện và lựa chọn theo mục tiêu ưu tiên.
-Bước 8: Chương trình hoá phương án chiến lược đã lựa chọn với hai công tác trọng tâm: thứ nhất, cụ thể hoá các mục tiêu kinh doanh chiến lược ra thành các chương trình, phương án, dự án; thứ hai, xác định các chính sách kinh doanh, các công việc quản trị nhằm thực hiện chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp.
Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo về môi trườngkinh doanh
Phân tích và dự báo về môi trường kinh doanh
So sánh, đánh giá và lựa chọn chiến lược tối ưu
Hình thành các phương án chiến lược
Xác định các nhiệm vụ nhằm thực hiện chiến lược lựa chọn
Đánh giá đúng thực trạng của doanh nghiệp
Tổng hợp kết quả đánh giá thực trạng doanh nghiệp
Các quan điểm mong muốn, kỳ vọng của lãnh đạo doanh nghiệp
Hình 2: Quy trình 8 bước xây dựng chiến lược.
*Quy trình 3 giai đoạn xây dựng chiến lược.
-Giai đoạn 1: Xác lập hệ thống dữ liệu thông tin từ môi trường kinh doanh, từ nội bộ doanh nghiệp,...làm cơ sở cho xây dựng chiến lược. Có thể sử dụng các kỹ thuật phân tích đã được tổng kết như: Ma trận đánh giá các yếu tố bên ngoài, ma trận đánh giá các yếu tố bên trong, ma trận hình ảnh cạnh tranh,
-Giai đoạn 2: Phân tích, xác định giữa các kết hợp giữa các thời cơ, cơ hội đe doạ,...của môi trường kinh doanh với các điểm mạnh, điểm yếu, của doanh nghiệp để thiết lập các kết hợp có thể làm cơ sở xây dựng các phương án chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Các kỹ thuật phân tích có thể được sử dụng ở đây là: Ma trận SWOT, ma trận BCG,
-Giai đoạn 3: Xác định các phương án, đánh giá, lựa chọn và quyết định chiến lược. Từ các kết hợp ở giai đoạn 2 cần lựa chọn hình thành các phương án chiến lược. Đánh giá và lựa chọn theo các mục tiêu ưu tiên.
Giai đoạn 1: Xác lập hệ thống thông ti, số liệu tình hình, phục vụ xây dựng chiến lược
Ma trận đánh giá các Ma trận hình ảnh Ma trận đánh giá các
Yếu tố bên ngoài (EFE) cạnh tranh yếu tố bên trong (IFE)
Ma trận chiến lược chính
Ma trận bên trong, bên ngoài (IE)
Ma trận Boston (BCG)
Ma trận vị trí chiến lược và đánh giá hoạt động
Ma trận điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, nguy cơ (SWOT)
Giai đoạn 2: Phân tích, xác định các kết hợp
Giai đoạn 3: Xây dựng, đánh giá và quyết định chiến lược Ma trận hoạch định chiến lược có khả năng định lượng (QSPM)
Hình 3: Quy trình xây dựng chiến lược theo 3 giai đoạn.
III. Quá trình hoạch định chiến lược kinh doanh
Quá trình hoạch định chiến lược được hiểu là sự thiết lập một chiến lược cho hoạt động của doanh nghiệp. Quá trình thiết lập chiến lược thường phải thực hiện qua những bước sau:
1. Xác định nhiệm vụ kinh doanh, mục tiêu chiến lược hiện tại của doanh nghiệp
Nhiệm vụ kinh doanh là sứ mệnh và mục tiêu của công ty, sứ mệnh của công ty nó xác định phạm vi rộng các hoạt động kinh doanh cơ bản của công ty đó, phân biệt nó với các tổ chức cùng loại. Các tổ chức kinh doanh khác nhau hoạt động trên những lĩnh vực kinh doanh khác nhau, không gian khác nhau, thời điểm khác nhau đều có những mục đích hoạt động khác nhau. Việc xác định chính xác cụ thể nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp là một công việc cực kỳ quan trọng của nhà hoạch định chiến lược. Nó là yếu tố đầu tiên hình thành lên một chiến lược để tổ chức theo đuổi với lý do thông qua nhiệm vụ kinh doanh nhà chiến lược sẽ định rõ được mục đích kinh doanh và chuyển những mục đích đó vào bên trong các mục tiêu theo các cách thức mà chi phí, thời gian và các tham số thực hiện có thể được đánh giá và quản lý. Nhiệm vụ kinh doanh luôn gắn với sự tồn tại của một tổ chức kinh doanh dù nó được thể hiện ở dạng này hay dạng khác, trong hoạt động quản trị hiện đại ngày nay thì nhiệm vụ kinh doanh thường được thể hiện thông qua bản báo cáo nhiệm vụ kinh doanh.
Trước hết phải xác định ngành (lĩnh vực) kinh doanh, việc xác định lĩnh vực kinh doanh tuỳ thuộc vào công ty kinh doanh trong một ngành (công ty đơn ngành) hay kinh doanh trong nhiều ngành khác nhau ( công ty đa ngành) sử dụng mô hình của Derek.f.Abell để xác định ngành kinh doanh cho 1 công ty dơn ngành bao gồm 3 nội dung.
+ Phải xác định được khách hàng là ai ( đối tượng nào mà công ty phục vụ).
+ Nhu cầu cần đáp ứng của khách hàng là gì ( hàng hoá dịch vụ nào mà công ty kinh doanh).
+ Công ty đáp ứng nhu cầu trên bằng cách nào (cách thức tiến hành hoạt động kinh doanh, công nghệ kinh doanh).
- Xác định ngành kinh doanh đôi với công ty đa ngành
+ Công ty đa ngành là một công ty kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau do đó ban lãnh đạo công ty phải quản lý một tập hợp các doanh nghiệp thành viên.
+Việc cần xác định ngành kinh doanh đối với công ty đa ngành thì cần giải quyết ở hai góc độ.
*cấp độ doanh nghiệp thành viên: Xác định ngành kinh doanh theo định hướng khách hàng ( sử dụng mô hình Abell như phần trên)
*Cấp công ty: Việc xác định ngành kinh doanh của công ty nó không phải là một phép cộng giảm đơn các ngành kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên do đó xác định ngành kinh doanh ở đây nó sẽ tập trung vào cách thức công ty tạo điều kiện để các doanh nghiệp thành viên hoạt động một cách có hiệu quả để sao cho chúng với tư cách một bộ phận của doanh nghiệp sẽ hoạt động hiệu quả hơn có lợi thế cạnh tranh hơn so với các đơn vị kinh doanh độc lập bên ngoài công ty
Mục tiêu là các kết quả định trước của một tập hợp các hành động nào đó, mục tiêu thì có mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn.
Mục tiêu dài hạn các doanh nghiệp thường muốn theo đuổi tập hợp các mục tiêu dài hạn trong 7 lĩnh vực sau: Khả năng sinh lời, Năng suất, Vị thế cạnh tranh, Phát triển nhân viên, Quan hệ với công nhân viên, Khả năng dẫn đầu công nghệ, Trách nhiệm trước công luận.
Mục tiêu ngắn hạn nó cụ thể hoá các mục tiêu dài hạn trong những khoảng thời gian ngắn hơn.
Hệ thống mục tiêu của công ty cần đáp ứng mức độ tương đối 6 tiêu thức cơ bản: tính tham vọng, tính linh hoạt, tính định lượng, tính khả thi, tính nhất quán và tính hợp lý. Phải thiết lập hệ thống mục tiêu, phụthuộc vào phương pháp kế hoạch hoá.
2. Đánh giá các yếu tố bên ngoài của doanh nghiệp
Mục tiêu của việc đánh giá môi trường bên ngoài là đề ra danh sách những cơ hội và từ môi trường mà doanh nghiệp nên nắm bắt, đồng thời là những nguy cơ từ môI trường đem lại, có thể gây ra những thách thức cho doanh nghiệp mà nó cần phải tránh. Là một danh sách tóm gọn, nó chỉ tập trung vào việc chỉ ra những nhân tố chính đòi hỏi có được những phản ứng cần thiết. Bằng việc hoạch định chính sách, doanh nghiệp có thể ở tư thế tấn công hay phòng thủ với từng nhân tố đó. Để đánh giá tác động môi trường bên ngoài là đầy đủ và toàn diện, chúng ta cần chỉ rõ tất cả các thành phần chủ chốt, là chủ thể tạo ra những cơ hội và thách thức cho tổ chức. Từ đó nắm hành vi và xu hướng vận động của những tác động mà chúng có thể gây ra với tổ chức, là cơ sở cho việc thực hiện các bước công việc tiếp theo. Thực hiện công việc này là phù hợp với quy luật khách quan của việc phân tích đánh giá các quy luật hiện tượng nói chung và hiện tượng kinh tế nói riêng.
Quá trình đánh giá các yếu tố môi trường được tiến hành thông qua năm nhân tố sau:
2.1. ảnh hưởng của yếu tố kinh tế
Thực trạng nền kinh tế và xu hướng trong tương lai có ảnh hưởng đến thành công và chiến lược của một doanh nghiệp. Các nhân tố chủ yếu mà doanh nghiệp thường phân tích là: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi xuất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát, các chính sách kinh tế của một số khu vực kinh tế quan trọng.
-Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: Tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia được đo bằng tỷ lệ tăng trưởng GDP hay GNP. Tốc độ tăng trưởng càng cao chứng tỏ rằng sức sản xuất và tiêu dùng trong nước càng lớn, áp lực cạnh tranh giảm và ngược lại.
-Lãi suất: Sự tăng giảm của lãi suất cũng ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư và khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu lãi suất cao thì người dân có xu hướng tiết kiệm hơn là tiêu dùng, và nó cũng làm giá thành và giá bán sản phẩm tăng, doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm để có chiến lược vốn đầu tư cho phù hợp.
-Tỷ giá hối đoái: Đặc biệt tác động mạnh đến các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái cao làm giảm giá trị đồng nội tệ, tăng cường xuất khẩu và ngược lại
-Tỷ lệ lạm phát: Lạm phát làm cho tăng trưởng kinh tế chậm lại.
- Chính sách kinh tế của một số khu vực kinh tế quan trọng: các chính sách này tác động đến một số mặt hàng xuất nhập khẩu, nó có thể làm tăng hoặc giảm mặt hàng nào đó.
2.2. ảnh hưởng của yếu tố xã hội, văn hoá, địa lý
Các nhân tố về văn hoá-xã hội ảnh hưởng một cách chậm chạp, song cũng rất sâu sắc đến môi trường kinh doanh. Sự xung đột về văn hoá, xã hội, lợi ích trong quá trình mở cửa và hội nhập,... đã đặt các yếu tố này ở vị trí quan trọng trong các yếu tố chung của môi trường kinh doanh hiện nay. Vị trí địa lý cũng là một yếu tố quan trọng trong vấn đề hoạch định chiến lược, nó ảnh hưởng đến chi phí, đến sở thích tiêu dùng.
ở mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi dân tộc, quan điểm tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ của dân cư là khác nhau. Những nhân tố này ảnh hưởng đến việc hình thành chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3. ảnh hưởng của yếu tố chính phủ, luật pháp chính trị
Các nhân tố Chính phủ, luật pháp và chính trị tác động đến doanh nghiệp theo các hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra cơ hội trở ngại, thậm chí là rủi ro thật sự cho doanh nghiệp. Việc phân tích dự đoán sự biến động của những nhân t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100540.doc