Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là dân chủ, theo đó dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta xây dựng. Từ lâu, Đảng ta rất coi trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hoá đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hoá đời sống xã hội từ cơ sở.
Chính vì vậy mà ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị 30 CT/TW về xây dựng QCDC ở cơ sở. Tiếp đó, ngày 15/05/1998, để cụ thể hoá Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ ra nghị định 29 NĐ/CP về ban hành “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã” nhằm phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Qua quá trình triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở, thực tế đã cho thấy kết quả bước đầu là rất quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn bộc lộ những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực. Tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, mệnh lệnh, tham nhũng, gây phiền hà cho dân vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng mà chưa đẩy lùi được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chậm đi vào cuộc sống.
Do vậy, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tiếp tục nêu rõ: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức; xây dựng luật trưng cầu ý dân” [8, 134].
Để không ngừng tăng cường việc thực hiện QCDC ở cơ sở và góp phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan, khoa học, việc đi sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện trên phạm vi toàn quốc hay từng địa phương cụ thể đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Với tầm quan trọng trên, tác giả mạnh dạn chọn vấn đề “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng - Thực trạng và giải pháp” để làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, nhằm vận dụng kiến thức đã học làm rõ hơn vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở trên một địa bàn xã cụ thể.
60 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là dân chủ, theo đó dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta xây dựng. Từ lâu, Đảng ta rất coi trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân, nên đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hoá đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hoá đời sống xã hội từ cơ sở.
Chính vì vậy mà ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị 30 CT/TW về xây dựng QCDC ở cơ sở. Tiếp đó, ngày 15/05/1998, để cụ thể hoá Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ ra nghị định 29 NĐ/CP về ban hành “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã” nhằm phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Qua quá trình triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở, thực tế đã cho thấy kết quả bước đầu là rất quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn bộc lộ những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực. Tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, mệnh lệnh, tham nhũng, gây phiền hà cho dân vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng mà chưa đẩy lùi được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chậm đi vào cuộc sống.
Do vậy, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tiếp tục nêu rõ: “Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức; xây dựng luật trưng cầu ý dân” [8, 134].
Để không ngừng tăng cường việc thực hiện QCDC ở cơ sở và góp phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan, khoa học, việc đi sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện trên phạm vi toàn quốc hay từng địa phương cụ thể đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Với tầm quan trọng trên, tác giả mạnh dạn chọn vấn đề “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng - Thực trạng và giải pháp” để làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, nhằm vận dụng kiến thức đã học làm rõ hơn vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở trên một địa bàn xã cụ thể.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đây là vấn đề đã được triển khai thực hiện ở nước ta và đã có một số công trình, bài viết liên quan.
Các bài viết của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, như: Lê Khả Phiêu (1998), “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí cộng sản, số 3; Đỗ Mười (1998), “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 20.
Các bài viết của các tác giả phân tích, lý giải về yêu cầu, cách thức tổ chức, biện pháp, con đường… để thực hiện tốt QCDC ở cơ sở, như: “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần Quang Nhiếp, Tạp chí Cộng sản, 1998, số 13; “Một số vấn đề về thực hiện quy chế dân chủ ở xã” của Vũ Anh Tuấn, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 9, 1998; “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thiết chế dân chủ ở nước ta” của Nguyễn Đình Tấn, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 10, 1998; “Cải cách thủ tục hành chính ở cấp xã nhằm đảm bảo dân chủ ở cơ sở” của Bùi Đức Kháng, Tạp chí Thanh tra, số 3, 1998.
Các bài viết của các giả nhằm sơ kết, đánh giá bước đầu như: “Thực hiện dân chủ ở xã - Mấy vấn đề đặt ra” của Trần Quang Nhiếp, Tạp chí Cộng sản, số 10, 1999; “Nhìn lại việc thực hiện thí điểm quy chế dân chủ ở cơ sở” của Đỗ Quang Tuấn, (2000), Tạp chí Dân vận, số (1-2); “Kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, vấn đề đặt ra và một số giải pháp” của Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn Lan, Thông tin lý luận, số 9, 2000.
Một số bài viết góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho việc thực hiện và đánh giá quy chế dân chủ ở cơ sở, như: “Củng cố các hình thức dân chủ vì sự vững mạnh của Nhà nước ta” của Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, 1998; “Dân chủ - một vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta” của Đặng Xuân Kỳ, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 7, 1998; “Những chỉ dẫn của Lênin về đấu tranh chống quan liêu và thực hành dân chủ” của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Thông tin lý luận, số 4, 1999.
Các công trình đã đăng thành sách, phân tích một cách sâu sắc, phong phú cả nội dung lý luận và thực tiễn qua khảo sát các vùng, các địa phương như: “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Dương Xuân Ngọc (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hoá đời sống xã hội ở nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta”, Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Văn Sáu - Hồ Quốc Thông (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001…
Như vậy, về vấn đề dân chủ đã có nhiều công trình, bài viết của nhiều tác giả đề cập. Tuy nhiên, riêng ở địa bàn xã miền núi Phổng Lăng (Thuận Châu – Sơn La), cho đến nay chưa có bài viết hay đề tài nào đề cập, phản ánh. Những tài liệu nêu trên sẽ giúp ích cho việc tham khảo trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài của tác giả.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng (Thuận Châu – Sơn La).
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng (Thuận Châu – Sơn La) trong 3 năm (2007 – 2009).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
+ Phân tích, làm rõ ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ là cơ sở, mục tiêu, động lực của quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội trên địa bàn xã.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng.
+ Vạch ra những nguyên nhân làm hạn chế việc thực hiện quy chế dân chủ, cũng như đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu với sự vận dụng tổng hợp các phương pháp lôgích và lịch sử, so sánh và tổng hợp cùng với phương pháp điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp của đề tài
Qua nghiên cứu, điều tra, phân tích quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng, đề tài khái quát một số kết quả bước đầu, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân của nó, đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường thực hiện quy chế dân chủ phù hợp với điều kiện địa bàn.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc nói chung, sinh viên chuyên ngành Giáo dục Chính trị nói riêng muốn nghiên cứu sâu hơn về việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng (Thuận Châu – Sơn La).
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về dân chủ và ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng hiện nay.
Chương 2: Kết quả bước đầu của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã Phổng Lăng.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ PHỔNG LĂNG HIỆN NAY
1.1. Những căn cứ lý luận và thực tiễn chủ yếu của việc ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Dân chủ - vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN
* Một số quan niệm cơ bản về dân chủ
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Ở đây, “Dân chủ” là một từ ghép bao gồm hai chữ: Demos (có nghĩa là người bình dân, dân chúng) và Kratia (chữ gốc là Kratos – có nghĩa là quyền cai trị, là sức mạnh). Do vậy, từ Demos Kratia có nghĩa là dân chủ, quyền lực, là sự cai trị của người bình dân. Theo đó, dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân; dân chủ là sự cai trị của nhân dân – nó được biểu hiện theo nghĩa đối lập với chế độ độc tài. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực, trong đó quyền lực chính trị là quan trọng nhất để tổ chức, quản lý xã hội, thực hiện sự nghiệp giải phóng con người và giải phóng nhân loại cần lao khỏi áp bức, xiềng xích, bất công.
“Dân chủ” có nghĩa chung là quyền lực của người bình dân, quyền làm chủ xã hội, và làm chủ bản thân con người, là quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội. Càng ngày, khái niệm dân chủ càng được mở rộng nhiều hơn, mang nội dung mới mẻ hơn, nó được gắn với ý thức chính trị, gắn với chính quyền của nhân dân, gắn với tiến trình lịch sử của xã hội loài người. Đồng thời, nó còn là giá trị xã hội nhân văn, đánh dấu nấc thang tiến bộ của xã hội loài người. Trong xã hội Cộng sản nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất kém phát triển, trước sức mạnh của thiên nhiên hoang sơ, huyền bí, để tồn tại và phát triển, con người phải gắn bó với nhau thành cộng đồng để tạo nên sức mạnh cộng đồng. Và họ đã sử dụng sức mạnh ấy để thực hiện quyền sống, quyền tự do, bình đẳng.
Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp đối kháng không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn tới nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là Nhà nước.
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Nhà nước chủ nô chính là hình thái đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp. Dân chủ chủ nô đã đem lại cho loài người một mô hình về mặt tổ chức và cơ chế vận hành của một thể chế dân chủ.
Riêng chế độ phong kiến là chế độ quân chủ, không phải chế độ dân chủ, nhưng những nhu cầu dân chủ, những biểu hiện dân chủ trong nhân dân, trong xã hội, thậm chí ngay cả trong một số triều đình phong kiến vẫn có [2, 156 - 157].
Thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa, dưới ngọn cờ dân chủ, giai cấp tư sản đã nhanh chóng lật đổ chế độ phong kiến với các khẩu hiệu “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”; họ rêu rao về quyền tự do cá nhân của con người, về các quyền tự quyết của các dân tộc. Song trên thực tế, xã hội tư bản “chủ nghĩa tự do” cho toàn xã hội đã bị thay thế bằng chủ nghĩa mất tự do cho giai cấp bị trị. Do vậy, sự tha hoá quyền lực của nhân dân là tất yếu phổ biến ở các nước tư bản chủ nghĩa. C.Mác đã nhận xét rằng: chế độ bầu cử tự do trong chủ nghĩa tư bản biến thành “tự do” của nhân dân lựa chọn những người thống trị mình. Tuyệt nhiên không phải là sự lựa chọn những người đại diện cho lợi ích của bản thân mình. Lênin trong tác phẩm “Nhà nước và Cách mạng” đã viết: “Chế độ đại nghị tư sản là chế độ kết hợp chế độ dân chủ (không phải cho nhân dân) với chế độ quan liêu (chống nhân dân)” [18, 137]. Như vậy, theo Lênin, hình thức dân chủ tư sản chính là chế độ dân chủ giả dối, đầy cạm bẫy.Tuy nhiên, hình thức dân chủ ấy cũng đạt được một bước tiến dài trên con đường giải phóng cá nhân. Dù vậy, nó vẫn là một nền dân chủ được xây dựng trên sự tước đoạt dân chủ, tước đoạt các quyền tự do chính đáng của các giai tầng khác, nhằm bảo vệ tối đa cho lợi ích của giai cấp tư sản. Dân chủ tư sản vì thế không thể là mục đích cuối cùng của loài người hướng tới.
Chỉ có nền chuyên chính của giai cấp vô sản mới đem lại một nền dân chủ thực sự, nền dân chủ được thiết lập trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, đối kháng giai cấp bị thủ tiêu, chỉ có như thế quyền lực của nhân dân mới được thực hiện đầy đủ.
Qua sự phân tích trên, chúng ta có thể khái quát những nét cơ bản về dân chủ như sau:
+ Dân chủ là sản phẩm của xã hội loài người, gắn với giai cấp và quá trình đấu tranh giai cấp.
+ Dân chủ là một hình thái nhà nước, mà ở đó thừa nhận quyền ngang nhau của dân cư trong việc xác định cơ cấu tổ chức nhà nước và quản lý xã hội.
+ Dân chủ cũng được xem xét với tư cách là phương thức của phong trào chính trị - xã hội của quần chúng, quyền hiện thực của nhân dân.
+ Dân chủ với tư cách là hệ thống quyền hành, tự do và trách nhiệm của công dân được quy định bởi hiến pháp và pháp luật, là hình thức nhà nước, hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực xã hội.
+ Dân chủ với tư cách là chế độ chính trị. Song với nghĩa chung nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Vì vậy mà trình độ dân chủ của một chế độ nhà nước được xác định bằng mức độ thực hiện nguyên tắc toàn quyền thuộc về nhân dân, nhân dân tham gia quản lý nhà nước như thế nào.
Dân chủ trong xã hội có đối kháng giai cấp luôn luôn chứa đựng sự mâu thuẫn giữa bản chất giai cấp thống trị với tính nhân dân. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, yếu tố mang tính nhân dân có tăng lên so với các xã hội trước, khiến cho mâu thuẫn giữa bản chất của giai cấp tư sản cầm quyền với tính nhân dân của dân chủ ngày càng trở nên sâu sắc. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới cách mạng xã hội nhằm giải quyết mâu thuẫn trên bằng việc thiết lập một chế độ dân chủ mới – dân chủ XHCN - chế độ dân chủ khác về chất so với chế độ dân chủ tư sản. Đó là “Chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp nhằm chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá huỷ chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân” [18, 135].
Chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân chủ, quyền lực của nhân dân được thể chế hoá thành pháp luật, thành hệ thống chính trị, thành nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị và chuẩn mực dân chủ thâm nhập và chi phối mọi hoạt động của mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội; mọi công dân và mọi tổ chức xã hội đều có khả năng nhận thức và vận dụng các giá trị dân chủ, và biến thành những quy tắc phổ biến trong hoạt động và các mối quan hệ xã hội. Dân chủ XHCN phục vụ lợi ích của người lao động và nó dựa trên chế độ sở hữu xã hội.
Chế độ dân chủ XHCN là sự thay thế lịch sử đối với chế độ dân chủ tư sản, là nấc thang mới trên chặng đường phát triển của chế độ dân chủ. Theo C.Mác thì chế độ dân chủ XHCN là “sự tự quy định của nhân dân”, chủ quyền thuộc về nhân dân; Lênin cũng viết: “Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ, lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân… dân chủ cho tuyệt đại đa số cho nhân dân” [18, 107]; Lênin cũng cho rằng, dân chủ XHCN là nền dân chủ gấp hàng triệu lần dân chủ tư sản, là dân chủ cho nhân dân lao động – dân chủ thực sự, theo nghĩa thống nhất giữa các quyền và nghĩa vụ công dân được quy định trong hiến pháp và pháp luật với sự thực hiện trong thực tế. Nhà nước có trách nhiệm tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần để công dân có thể thực hiện quyền theo luật định. Dân chủ XHCN là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá – tư tưởng. Thực chất của nền dân chủ XHCN là sự tham gia một cách tích cực, thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của người lao động vào quản lý công việc của Nhà nước và xã hội.
Dân chủ XHCN là một hình thái dân chủ do nhân dân lao động thiết lập trong quá trình đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong chính trị của mình là Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự giành lấy chính quyền, phải tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc” [15, 623], phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp là giành lấy quyền lực nhà nước và tổ chức quyền lực đã giành được đó thành nhà nước vô sản, nhà nước dân chủ vô sản, chế độ dân chủ vô sản, một chế độ dân chủ tiến bộ về mọi mặt, khác về chất so với chế độ dân chủ tư sản.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, đã thiết lập Nhà nước Xôviết - chế độ dân chủ XHCN đầu tiên trên thế giới. Theo Lênin, “Chế độ Xôviết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nông dân. Đồng thời, nó có ý nghĩa là sự đoạn tuyệt với chế độ dân chủ tư sản và sự xuất hiện trong lịch sử thế giới, một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế độ dân chủ vô sản hay là nền chuyên chính vô sản” [19, 184].
Chủ Tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân lao động làm chủ” [22, 251]. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra đời, đó là nhà nước công nông đầu tiên được thiết lập ở Đông Nam Á. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, chế độ ta là chế độ do nhân dân ta làm chủ. Mỗi công dân đều có quyền và nghĩa vụ tham gia làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, và làm chủ bản thân mình. Những luận điểm cơ bản ấy đã được nêu rõ trong các Nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp của Nhà nước, và được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật, nhiều chính sách đã được ban hành từ trước đến nay. Những điều đó khẳng định dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN nói chung, của Nhà nước ta nói riêng.
* Đảng Cộng sản Việt Nam với việc nhận thức về dân chủ và dân chủ ở cơ sở
Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, truyền thống lấy dân làm gốc, coi trọng dân vốn đã hình thành trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đã được Đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, đã có nhận thức sâu sắc về vấn đề dân chủ và vai trò của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người, dân chủ được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, dân là chủ: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [21, 515]; thứ hai, dân chủ tức là dân làm chủ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”; dân chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. Khắp nơi đều có đoàn thể nhân dân, như: Hội đồng nhân dân, Mặt trận, công đoàn… những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với chính phủ” [21, 66].
Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thức sâu sắc về sức mạnh của quần chúng nhân dân; coi dân là gốc của nước, của cách mạng. Người nói:
“Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”
Hay:
“Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được.
Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên” [20, 293].
Bởi vì , theo Người, dân chủ là lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Dân chủ đối lập với quan liêu: “Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ”. Không chỉ có quan niệm dân chủ đúng đắn mà Người còn nhận thấy vai trò, tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ. Trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, việc thực hành dân chủ là nhằm đem lại ấm no, hạnh phúc, bình đẳng cho quần chúng nhân dân một cách đích thực. Người nói: “Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” [22 ,249].
Trong bản Di Chúc để lại cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Như vậy, dân chủ luôn là nội dung quan trọng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở lý luận, tư tưởng giúp Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Qua tám mươi năm lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta bao giờ cũng coi dân chủ là một nội dung quan trọng trong đường lối cách mạng của mình. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược - vừa là bản chất, vừa là đặc trưng của chế độ mới.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam mà Đảng ta đã vạch ra và lãnh đạo đó chính là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu là Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong đó hai mục tiêu dân tộc và dân chủ gắn bó với nhau từ buổi đầu sự nghiệp cách mạng. Nội dung dân chủ trong giai đoạn cách mạng trước chủ yếu là đem lại ruộng đất cho dân cày – thành phần đông đảo nhất trong dân cư. Sau cách mạng dân tộc, dân chủ thành công, Đảng ta lãnh đạo đất nước chuyển sang giai đoạn cách mạng mới - cách mạng XHCN - đó chính là cuộc cách mạng giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở trình độ hoàn thiện và toàn diện hơn, tiến tới thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Từ Đại hội IV (12/1976), Đảng ta đã xác định việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN là một trong bốn mục tiêu cơ bản của cách mạng XHCN, và cũng là một trong bốn đặc trưng của cách mạng XHCN ở nước ta. Quan điểm đó được tiếp tục khẳng định và cụ thể hoá từng bước trong Nghị quyết Đại hội V (3/1982) của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng là Đại hội mở đầu cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Quan điểm “lấy dân làm gốc”, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất; đổi mới nội dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên tắc kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn minh của nhân loại, bảo đảm quá trình đổi mới diễn ra theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng với việc thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nhấn mạnh: “Xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ” và “Toàn bộ tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” [4, 19], “Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới” [4, 90].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền dân chủ XHCN là nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt quy chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở” [5, 43]. Việc ban hành Chỉ thị 30 CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị định 29 NĐ/CP (1998) là sự cụ thể hoá quan điểm đó của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được xem là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới. Tại Đại hội này nội dung dân chủ càng được coi trọng. Dân chủ đã được đặt trong mục tiêu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đó là “độc lập dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [8, 22].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4- 2006), với chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Tại Đại hội này, Đảng ta đã rút ra năm bài học lớn, trong đó vấn đề dân chủ tiếp tục là vấn đề cốt yếu của nhà nước chủ nghĩa xã hội – bài học thứ năm nêu rõ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” [9, 76].
Như vậy, nội dung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn là nội dung quan trọng và nhất quán trong toàn bộ đường lối của Đảng ta từ trước đến nay. Dân chủ gắn liền với “dân sinh”, “dân trí”; dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng nói chung và của công cuộc đổi mới nói riêng.
Qua hơn 20 năm đổi mới, thực hiện các nghị quyết của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân không ngừng được nâng cao. Dân chủ đã đem lại cho nhân dân không phải những giá trị dân chủ trừu tượng, mà bằng những kết quả cụ thể trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Dân chủ đã trở thành nhu cầu khách quan gắn với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, là yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước; dân chủ cũng là vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Trong những năm qua, mặc dù đã có những thành tựu nhất định. Song, quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, tham nhũng, sách nhiễu dân vẫn xảy ra phổ biến và nghiêm trọng. Đây là nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền. Quan liêu và tham nhũng làm xói mòn bản chất cách mạng của Đảng, của Nhà nước, làm suy thoái đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức về đạo đức, chính trị, phá hoại mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2727873 2.doc