Chuyên đề Phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Kế toán, kiểm toán là công cụ quan trọng giúpNhà nước quản lý, giám sát

chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một chính sách kế toán, kiểm toán

tốt giúp cho việc cung cấp thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp được

đầy đủ, trung thực, công khai, đáp ứng yêu cầu tổ chức quản lý điều hành của cơ

quan Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức cá nhân qua đó sẽ góp phần vào việc xây

dựng TTCK công khai, minh bạch và hiệu quả.

Thực tế trong những năm qua, chúng ta đã không ngừng hoàn thiện chính sách

kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong quá trình

hội nhập. Tuy nhiên chính sách kế toán, kiểm toán của chúng ta vẫn tồn tại nhiều bất

cập gây không ít khó khăn doanh nghiệp cũng như cấp quản lý. Để khắc phục tình

trạng này, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và ban hànhđồng bộ hệ thống các chuẩn

mực kế toán, kiểm toán phù hợp với các thông lệ quốc tế và đặc thù của nền kinh tế

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc

GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44

nước ta nhằm tăng cường tính minh bạch, công khai thông tin đối với các doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần nói chung và doanh nghiệp niêm yết nói riêng.

pdf105 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vai trò quan trọng đối với hoạt động của thị trường. Xây dựng một môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch và hiện đại làm cơ sở vững chắc cho mọi hoạt động của TTCK trong đặc thù hiện tại của Việt Nam và định hướng tới những chuẩn mực quốc tế cũng như để đảm bảo lòng tin cho người đầu tư ngay từ khi họ tham gia vào TTCK. Cho đến nay, Nghị định 144/2003/NĐ-CP ra ngày 28/11/2003 của Chính phủ là văn bản có tính pháp quy cao nhất về lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Nhìn chung, về cơ bản Nghị định đã thiết lập được một khuôn khổ pháp lý cho TTCK tại Việt Nam, tuy nhiên Nghị định còn mang tính chung chung, chưa quy định cụ thể hoạt động cho từng loại thị trường, bên cạnh đó các văn bản pháp quy còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn. Để khắc phục được tình trạng này, cần phải tiến hành rà soát, phát hiện những điểm còn tồn tại, thiếu sót và chưa hợp lý để điều chỉnh và nâng cấp Nghị định 144/CP thành Luật chứng khoán, với những quy định chi tiết, cụ thể có tính bao trùm và phù hợp với việc hội nhập trong thời gian tới. Theo đó, xây dựng các nội dung cơ bản của Luật chứng khoán phải đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp với các lĩnh vực pháp luật có liên quan. Ví dụ như: về hoạt động phát hành chứng khoán, ở đa số các nước, việc phát hành ra công chúng được quy định tại Luật chứng khoán, còn việc phát hành riêng lẻ thường được điều chỉnh tại Luật công ty, và việc phát hành riêng lẻ thường được miễn trừ các thủ tục xin phép cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK, đồng thời chứng khoán phát hành theo hình thức này không phải là đối tượng được giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán. Vì vậy, theo tôi ở Việt Nam nên áp dụng theo hình thức này, chỉ thay việc đưa hoạt động phát hành riêng lẻ ở Luật công ty vào Luật doanh nghiệp. Các điều kiện phát hành, niêm yết và việc quản Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 lý các thành viên thị trường cũng phải được thắt chặt hơn, đặc biệt cần phải có những quy định hết sức rõ ràng và cụ thể để đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch cho TTCK, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của các chủ thể có liên quan, từ đó đưa ra một khung pháp lý thích hợp với tình hình phát triển của thị trường ở các thời điểm khác nhau. Đồng thời cần tiến hành rà soát các văn bản luật hiện hành như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật thuế… nhằm đồng bộ hoá các quy định và gỡ bỏ những vấn đề gây cản trở đến sự phát triển của thị trường. Bên cạnh đó, Luật chứng khoán cũng phải gắn kết với Luật hình sự để xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi thao túng thị trường, mua bán nội gián nhằm đảm bảo công bằng cho các chủ thể tham gia. Về vấn đề xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, ở Việt Nam cần đưa luôn các quy định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK vào Luật chứng khoán. Theo đó, chúng ta chỉ nên xây dựng trong Luật chứng khoán các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Các tội phạm về chứng khoán và các chế tài áp dụng đối với từng tội danh chỉ có thể đưa vào điều chỉnh trong Luật hình sự. Hình phạt hành chính được quy định trong Luật chứng khoán là cảnh cáo và phạt tù, đồng thời chủ thể thực hiện hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng thêm một số hình phạt bổ sung như đình chỉ hoặc huỷ bỏ giấy phép hành nghề, thu hồi, huỷ bỏ giấy phép hoạt động của công ty…Ngoài ra, cần phải xác định rõ phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật chứng khoán trong mối quan hệ thống nhất với các lĩnh vực pháp luật khác. Một điểm đáng nói nữa trong việc xây dựng Luật chứng khoán là một mặt phải vừa có tính khuyến khích, vừa có tính bắt buộc và mặt khác là phải tìm đúng nguyên do của sự việc để việc ban hành những chính sách sẽ có hiệu nghiệm ngay khi thực thi. Một ví dụ, hiện nay chúng ta rất muốn bằng mọi cách để tăng nguồn hàng cho TTCK, tất cả đều biết rằng có rất nhiều lý do các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết nhưng ngại niêm yết, mà một trong các lý do đó là các doanh nghiệp sợ phải công khai minh bạch hoạt động của mình, thế nhưng chúng ta lại không giải Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 được nút này. Nếu như tất cả mọi công ty cổ phần, cả niêm yết và cả không niêm yết đều phải bắt buộc phải thực hiện công khai tài chính và các hoạt động (mà liên quan tới vấn đề này hiện nay không được ban hành) thì có lẽ một phần khó khăn đã được giải quyết, vì khi đó cùng một điều kiện về nghĩa vụ phải công khai minh bạch như nhau, các doanh nghiệp chắc chắn sẽ muốn niêm yết vì nhìn thấy những lợi ích của nó. Có thể nói rằng, một hệ thống phát luật hoàn chỉnh sẽ góp phần đảm bảo sự thành công cho TTCK. Để hệ thống pháp luật này phát huy tác dụng tối đa thì cần phải có sự quản lý, giám sát chặt chẽ của UBCKNN, các TTGDCK, và các cơ quan khác có liên quan. 3.2.2. Thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký giao dịch trên TTGDCK Hà nội. Cung và cầu là hai yếu tố cơ bản nhất của bất kỳ một thị trường nào, TTCK cho các DNV&N cũng không nằm ngoài đặc điểm đó. Để thị trường phát triển thì một trong những giải pháp quan trọng là phải tăng cung cho thị trường, tăng số lượng và chất lượng hàng hoá cho thị trường, vậy thì làm thế nào để có thể lôi kéo được các DNV&N tham gia niêm yết trên thị trường đang là vấn đề rất đáng được quan tâm, sau đây là một số giải pháp nhằm kích cung cho thị trường: 3.2.2.1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác CPH DNNN, thực hiện gắn CPH với việc đấu giá và đăng ký giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà nội. Nhìn tổng quát, cổ phiếu của các công ty nhà nước thực hiện CPH là một nguồn hàng chủ yếu cho TTCK còn non trẻ ở nước ta hiện nay. Thực tế trong số 34 CtyCP niêm yết trên TTGDCK tp. HCM thì có 29 CtyCP được hình thành từ CPH DNNN. Dự kiến giai đoạn 2006-2010 sẽ CPH khoảng 1.700 doanh nghiệp (trong gần 2.700 DNNN có đến nay). Vì vậy, thực hiện gắn kết quá trình CPH DNNN với TTCK là giải pháp quan trọng thúc đẩy thị trường phát triển. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 Hiện nay tiến trình CPH DNNN mặc dù đã và đang được các Bộ, ngành quan tâm tuy nhiên tiến trình CPH diễn ra đang còn chậm và không thực sự hiệu quả, ít được đấu giá công khai, minh bạch nên nhiều khi giá cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp, đồng thời số cổ phiếu này sau đó trôi nổi trên thị trường chợ đen gây nhiều khó khăn cho việc quản lý và rủi ro cho người nắm giữ chúng. Trong giai đoạn hiện nay, để hoàn thiện công tác CPH và khắc phục những tình trạng yếu kém trên, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế CPH DNNN quy định tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP theo hướng: - Mở rộng lĩnh vực và tỷ lệ góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của doanh nghiệp, các Bộ, các địa phương, các tổng công ty và các định chế trung gian trong việc gắn CPH với TTCK… Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ cơ chế CPH công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước 1 thành viên, 2 thành viên. -Tiếp tục rà soát các doanh nghiệp đã CPH để xác định doanh nghiệp có đủ điều kiện niêm yết, đăng ký giao dịch hoặc bán bớt cổ phần để có giải pháp đưa các doanh nghiệp này lên sàn giao dịch…Vấn đề này thực tế hiện nay, Bộ Tài chính đã thành lập Ban chỉ đạo để chọn ra danh sách 300 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết trình Chính phủ phê chuẩn. Tuy nhiên nếu cứ theo những quy định như hiện nay thì mục tiêu đến cuối năm 2006 có 200 doanh nghiệp niêm yết như Chính phủ yêu cầu khó có thể thực hiện được cả về mặt thời gian và số lượng, bởi vì về mặt thời gian Bộ Tài chính đã mất thời gian cho việc chọn lựa danh sách, trình Chính phủ thẩm định, phê duyệt nhưng không đảm bảo 100% các công ty trong danh sách sẽ được niêm yết, còn về mặt số lượng thì danh sách 300 doanh nghiệp mà Bộ Tài chính chọn không tránh khỏi có thể còn sót một số doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn niêm yết nhưng chưa được đưa vào danh sách. Chính vì vậy, Chính phủ và Bộ Tài chính nên để các tổ chức tài chính trung gian, các hiệp hội ngành nghề và chính những cổ đông của các doanh nghiệp CPH thực hiện kiểm tra, giám sát và đề xuất là chặt chẽ nhất. Chỉ Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 cần có chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính gửi công văn đến tất cả các CtyCPH (kèm theo các tiêu chuẩn của công ty niêm yết) yêu cầu các công ty tự đối chiếu các tiêu chuẩn niêm yết với công ty của mình, nếu có đủ điều kiện thì người đại diện nắm giữ phần vốn Nhà nước phải đưa vấn đề niêm yết ra trước Đại hội đồng cổ đông và người đại diện phần vốn Nhà nước phải bỏ phiếu đồng ý niêm yết, còn niêm yết hay không phụ thuộc vào kết quả bỏ phiếu trong đại hội đồng cổ đông. Lúc đó, vai trò của Ban chỉ đạo thay vì lựa chọn danh sách các công ty đủ tiêu chuẩn niêm yết để trình Chính phủ thì ngược lại, Ban chỉ đạo sẽ lập danh sách những công ty đủ điều kiện niêm yết nhưng không thực hiện để trình Chính phủ có biện pháp xử lý cụ thể (Ban chỉ đạo này sẽ tiếp nhận mọi ý kiến phản hồi từ các tổ chức và cá nhân nói trên). Ngoài ra, Chính phủ cũng cần ban hành văn bản quy định bắt buộc những DNNN CPH đáp ứng được các điều kiện theo quy định, sau một thời gian nhất định thì đưa vào niêm yết luôn trên TTCK. Quy định bắt buộc tham gia TTCK đối với một số DNNN CPH đáp ứng đủ điều kiện có ý nghĩa hết sức to lớn. Thứ nhất, làm cho quá trình CPH, mà bản chất là quá trình sắp xếp, điều chỉnh để doanh nghiệp có một cơ chế sở hữu, quản lý, điều hành hiệu quả hơn, được triệt để hơn. Thứ hai, đối với thị trường còn non trẻ của chúng ta có thể nói đây là một biện pháp tạo cung hàng hoá đặc biệt hiệu quả. 3.2.2.2. Tăng cường các khuyến khích cho các công ty niêm yết. Để thúc đẩy DNV&N tham gia đăng ký giao dịch trên TTGDCK Hà Nội nhằm góp phần phát triển TTGDCK Hà nội nói riêng và TTCK nói chung theo đúng mục tiêu đề ra, thì Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, đưa ra các chính sách khuyến khích hấp dẫn cho các công ty niêm yết. Các chính sách ưu đãi có thể là: Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44  Chính sách ưu đãi về thuế: Miễn giảm thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp niêm yết trên TTGDCK Hà Nội theo hình thức giảm dần qua các năm. Theo đó, sẽ miễn thuế thu nhập trong 2 năm và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo đối với những doanh nghiệp niêm yết năm 2006, miễn 1 năm và giảm 50% đối với các doanh nghiệp niêm yết năm 2007, giảm 50% trong 3 năm đối với những doanh nghiệp niêm yết năm 2008, giảm 50% trong 2 năm đối với những doanh nghiệp niêm yết năm 2009, giảm 50% trong 1 năm đối với những doanh nghiệp niêm yết trong năm 2010. Như vậy, về cơ bản đến năm 2011 các doanh nghiệp niêm yết trên TTGDCK Hà Nội sẽ không được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp.  Hỗ trợ phí kiểm toán, tư vấn niêm yết cho các doanh nghiệp niêm yết trong giai đoạn đầu: Để có thể tham gia vào TTCK, các doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng chi phí không phải là nhỏ như: chi phí tư vấn niêm yết, chi phí kiểm toán, chi phí về tư vấn và đào tạo thành viên hội đồng quản trị… Nhằm giảm bớt khó khăn và khuyến khích các DNV&N muốn tham gia TTCK nên có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về các chi phí này. Đây là giải pháp hỗ trợ mang tính trực tiếp mà hầu hết các doanh nghiệp đều mong muốn nhận được từ phía Nhà nước. Việc hỗ trợ phí có thể được triển khai theo hướng sau: Thứ nhất, thành lập Quỹ hỗ trợ DNV&N tham gia đăng ký giao dịch trong một số năm đầu khi TTGDCK Hà Nội hoạt động. Thứ hai, tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức IMF, WB, ADB trong việc tài trợ cung cấp các dịch vụ về kiểm toán, tư vấn miễn phí đối với những DNV&N nói chung và doanh nghiệp niêm yết trên TTGDCK Hà Nội nói riêng. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 Tăng cường công tác tiếp cận, vận động doanh nghiệp tham gia niêm yết trên TTGDCK Hà Nội Công tác tiếp cận, vận động DNV&N tham gia TTCK cần phải xúc tiến mạnh mẽ hơn. Việc tiếp cận doanh nghiệp sẽ giúp các nhà quản lý lắng nghe được và giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc kiến nghị của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các biện pháp khắc phục, đồng thời giúp doanh nghiệp nhận thức được đầy đủ hơn lợi ích của việc tham gia niêm yết trên TTCK. Cụ thể, UBCKNN cần chỉ đạo TTGDCK Hà nội, các đơn vị có liên quan thành lập các đoàn công tác liên ngành, đối thoại thường xuyên với doanh nghiệp nhằm điều chỉnh cơ chế, chính sách cho hợp lý, tạo sự vận hành trôi chảy cho cơ chế để thúc đẩy doanh nghiệp tham gia niêm yết trên TTGDCK Hà nội. Cùng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên nhằm thúc đẩy các DNV&N nói riêng và doanh nghiệp nói chung tham gia TTCK, cần kiên quyết giảm các nguồn vay ưu đãi không hiệu quả cho các doanh nghiệp. Đồng thời có những biện pháp biểu dương các công ty niêm yết sao cho hình ảnh của các công ty niêm yết được phổ biến rộng rãi hơn nữa. 3.2.3. Khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài. Có cung tất yếu sẽ có cầu, song song với việc thực hiện các giải pháp để kích cung, cũng cần thực hiện các giải pháp để kích cầu. Để kích cầu giải pháp quan trọng nhất là phải tăng cường nhận thức và tạo động lực khuyến khích nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư có tổ chức. Các tổ chức đầu tư thường có tiềm lực tài chính lớn, thực hiện đầu tư theo danh mục, có những chuyên gia phân tích với trình độ và kinh nghiệm cao, có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự sôi động cho hoạt động của thị trường. Để TTCK phát triển thì không thể không có những tổ chức đầu tư lớn mạnh này. Đặc biệt là trong bối cảnh TTCK Việt Nam đang còn rất non trẻ Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 hiện nay, quy mô thị trường chưa lớn, còn thiếu những nhà đầu tư chuyên nghiệp thì việc thu hút các nhà đầu tư có tổ chức là rất cần thiết. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ về thuế, phí…các chính sách này cần hướng tới những ưu đãi cụ thể nhằm khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức, từ đó đưa thêm một lượng vốn đáng kể đang được tập trung tại các tổ chức này vào phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế. Bên cạnh đó cần khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. Cho tới nay, việc nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ phần (49%) đã phần nào giải quyết được bức xúc trong vấn đề tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài, phần nào đã tạo thêm sinh khí cho thị trường. Tuy nhiên cũng cần mở rộng hơn phạm vi, lĩnh vực ngành nghề mà nhà đầu tư nước ngoài có thể tham gia, đặc biệt đối với những ngành nghề không quan trọng. 3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đào tạo chứng khoán cho doanh nghiệp và công chúng. Việc tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền và đào tạo chứng khoán có thể coi là một chính sách rất quan trọng đặc biệt đối với nước ta khi TTCK còn ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Công tác này giúp quảng bá rộng rãi về thị trường, nâng cao trình độ hiểu biết cho người đầu tư và quan trọng nhất là để đội ngũ lãnh đạo của doanh nhgiệp thấy được lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của việc tham gia TTCK, từ đó tạo sức ép đưa doanh nghiệp tham gia TTCK. Tuy nhiên công tác thông tin tuyên truyền về chứng khoán và TTCK hiện nay chưa được thường xuyên và có hệ thống, chưa phổ cập trên các phương tiện thông tin đại chúng. Xuất phát từ thực trạng và chiến lược phát triển TTCK Việt Nam, gắn với tiến trình cải cách và phát triển DNV&N, thì công tác tuyên truyền đào tạo chứng khoán cho công chúng là một nhiệm vụ cấp bách không chỉ của ngành chứng khoán mà cần phải có sự kết hợp của nhiều cơ quan liên quan. Theo đó, UBCKNN cần xây dựng đề Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 án và chiến lược phổ cập kiến thức chứng khoán trình Bộ Tài chính xem xét để trình Chính phủ phê duyệt. Đối với TTGDCK Hà Nội cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Trung tâm nghiên cứu và đào tạo cũng như chính quyền các cấp, các ngành trong việc xây dựng các chương trình đào tạo, tổ chức hội nghị tập huấn cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên tất cả các tỉnh thanh phố lớn để công chúng cũng như doanh nghiệp hiểu rõ hơn về TTCK cũng như những lợi ích của việc niêm yết trên TTGDCK Hà Nội. Đồng thời TTGDCK Hà Nội cũng cần chủ động trong việc cung cấp thông tin, trả lời phỏng vấn về chứng khoán và TTCK cho các phương tiện báo chí và truyền hình. Bên cạnh đó, cần có những chuyên mục chứng khoán hàng ngày trên những tờ báo, tạp chí có số lượng độc giả lớn (không chỉ là các tờ báo chuyên ngành), và các chương trình thường niên trên truyền hình (hàng ngày, hàng tuần) cung cấp những thông tin về TTCK có sự tham gia của các chuyên gia chuyên ngành, các ctyCK…ở đây cần ý thức được tác dụng to lớn của nó và Nhà nước nên có kế hoạch tài trợ và khai thác tài trợ cho những công tác tuyên truyền này. 3.2.5. Nâng cao vị thế, quyền hạn, năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán. Ở Việt Nam, do tính chất đặc thù của ngành chứng khoán và bối cảnh thị trường mới đi vào hoạt động, đòi hỏi công tác quản lý và điều hành thị trường của cơ quan quản lý phải năng động, linh hoạt và kịp thời. Hiện nay, cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất về chứng khoán và TTCK ở nước ta là UBCKNN. Theo pháp luật hiện hành, UBCKNN là một tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính, bên cạnh những mặt tích cực và thuận lợi, vị thế này có hạn chế lớn do mô hình tổ chức hành chính nhiều cấp trong quản lý điều hành, yếu tố này phần nào đã ảnh hưởng tới năng lực quản lý thị trường của UBCKNN. Bởi vì, khi UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính, bản thân các cơ quan Nhà nước cấp cao vẫn chưa coi UBCKNN là một cơ quan quản lý Nhà nước có quyền hạn cao. Hơn nữa, khi trực thuộc Bộ Tài chính, các văn bản có tính Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 pháp luật được soạn thảo bởi các chuyên gia của UBCKNN lại phải mất một thời gian chờ đợi, trình lên cấp cao hơn là Bộ Tài chính chờ xét duyệt, điều này có thể ảnh hưởng đến tính kịp thời của các văn bản này. Vì vậy, việc tách UBCKNN ra khỏi Bộ Tài chính thành một cơ quan độc lập, với quyền hạn riêng, có chức năng thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK nói chung và TTCK của các DNV&N nói riêng, việc quản lý sẽ được chuyên sâu hơn, tập trung hơn. Vì vậy, xu hướng trong thời gian tới cần phải tách UBCKNN ra trực thuộc Chính phủ như trước đây. 3.2.6. Tăng cường vai trò của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán. Bên cạnh các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán như UBCKNN, Sở GDCK…thì việc thành lập các tổ chức tự quản như Hiệp hội kinh doanh chứng khoán là tất yếu. Hiệp hội là nơi tạo tiếng nói chung cho các nhà kinh doanh chứng khoán trong việc thống nhất các kế hoạch hành động vì mục tiêu phát triển của TTCK, phối hợp đào tạo, nâng cao trình độ cho các hội viên, đưa ra các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp và giám sát việc thực hiện các tiêu chuẩn đó, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên và công chúng đầu tư. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, TTCK nói chung và TTCK cho các DNV&N nói riêng là lĩnh vực còn khá mới mẻ, sự hiểu biết của công chúng đầu tư còn nhiều hạn chế, các công ty chứng khoán, các tổ chức lưu ký còn thiếu các cán bộ có năng lực, hoạt động công bố thông tin của các tổ chức phát hành còn thiếu minh bạch…Trong khi đó, một điều băn khoăn hiện nay là Hiệp hội kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam hoạt động chưa mạnh, chưa có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của cộng đồng kinh doanh và xã hội. Vì sự phát triển toàn vẹn của thị trường và vì lòng tin của người đầu tư, Hiệp hội kinh doanh chứng khoán cần phải tăng cường năng lực hoạt động. Cụ thể, cần phải xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ và thống nhất cho hoạt động Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 của Hiệp hội trong đó quy định rõ chức năng, quyền hạn và nội dung hoạt động của Hiệp hội. Đồng thời, khuyến khích các công ty chứng khoán, Ngân hàng lưu ký, và các tổ chức khác tham gia làm thành viên của mình. 3.2.7. Hình thành và phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm. Định mức tín nhiệm là việc đánh giá các công cụ nợ giao dịch trên TTCK thông qua việc phân tích và xếp hạng khả năng tín dụng của các chứng khoán đó. Việc xây dựng và phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay là rất cần thiết đối với sự phát triển của TTCK nói chung và TTCK cho các DNV&N nói riêng. Định mức tín nhiệm có vai trò rất quan trọng đối với các thành viên tham gia thị trường. Đối với các tổ chức niêm yết, việc được các tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín đánh giá, xếp hạng về khả năng trả nợ, về mức độ rủi ro của tổ chức phát hành ở hiện tại và trong tương lai gần sẽ giúp cho tổ chức phát hành có kế hoạch phù hợp, dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán, lựa chọn được công cụ và phương thức huy động phù hợp, ổn định và mở rộng thị trường phát hành ra nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư, định mức tín nhiệm sẽ cung cấp nhanh cho các nhà đầu tư các thông số rõ ràng, chính xác, tin cậy về tình hình tài chính, khả năng sinh lời, tình hình hoạt động, khả năng thanh toán cũng như mức độ rủi ro của tổ chức phát hành, giúp cho nhà đầu tư không phải mất nhiều thời gian tìm hiểu và phân tích chúng. Đây là cơ sở quan trọng để nhà đầu tư cân nhắc và đưa ra cho mình quyết định đầu tư hợp lý tuỳ vào mức độ rủi ro mà mình có thể chấp nhận được. Căn cứ đánh giá, xếp hạng của tổ chức định mức tín nhiệm sẽ giúp nhà đầu tư dễ dàng lựa chọn các công ty mà mình sẽ đầu tư tuỳ theo chiến lược đầu tư riêng. Một nguyên lý là lợi rủi ro cao thì lợi nhuận bù đắp cũng sẽ cao và ngược lại. Những người ưa thích đầu tư theo chiến lược đầu tư mạo hiểm sẽ lựa chọn những công ty có hệ số tín Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 nhiệm thấp, bù lại họ sẽ có khả năng thu được lợi nhuận cao. Còn những người theo chiến lược đầu tư an toàn sẽ lựa chọn những công ty có hệ số tín nhiệm cao hơn, như vậy lợi tức mang lại cũng sẽ thấp hơn. Với những ảnh hưởng trên ta thấy, việc các tổ chức định mức tín nhiệm đi vào hoạt động sẽ thúc đẩy khả năng chuyển nhượng các chứng khoán trên thị trường, giúp người đầu tư hạn chế được rủi ro, sự thiếu vắng các tổ chức này sẽ tạo ra một trở ngại đối với sự phát triển của thị trường. Hiện nay, để hình thành và phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam thì trước tiên phải tạo ra một hành lang pháp lý cho loại hình dịch vụ này hoạt động, đồng thời thành lập các công ty định mức tín nhiệm, đặc biệt khuyến khích thành lập các công ty liên doanh với các công ty định mức tín nhiệm nước ngoài có uy tín, xây dựng các tiêu chuẩn xếp hạng doanh nghiệp, đào tạo đội ngũ chuyên gia đánh giá xếp hạng để đảm bảo tính chính xác cho các đánh giá…nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCK nói chung và TTCK cho các DNV&N nói riêng. 3.2.8. Năng cao năng lực hoạt động của các trung gian tài chính Các trung gian tài chính với việc cung ứng các dịch vụ chứng khoán đã thể hiện được vai trò to lớn đối với sự phát triển của TTCK nói chung. Để thị trường ngày một phát triển, vận hành thông suốt hơn thì việc nâng cao năng lực hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường cũng được coi là một giải pháp quan trọng. Trước tiên, phải nâng cao tiềm lực tài chính cho các tổ chức cung ứng dịch vụ chứng khoán để có thể đáp ứng tốt hơn các dịch vụ tương xứng với nhu cầu ngày một lớn của thị trường. Thứ hai, áp lực cạnh tranh và xu thế hội nhập trong thời gian tới đòi hỏi các trung gian phải nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp, muốn có chất lượng tốt thì cần phải có con người tốt, vì vậy, phải chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn của các nhân viên hành nghề kinh doanh chứng khoán. Theo đó, cần phải xây dựng các Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp TrÇn ThÞ BÝch Ngäc GVHD: ThS. Lª Trung Thµnh Líp TTCK 44 chương trình đào tạo chuyên sâu theo từng nghiệp vụ (môi giới, tư vấn, bảo lãnh phát hành…) cho nhân viên hành nghề kinh doanh chứng khoán để họ trở thành những chuyên gia ở từng nghiệp vụ được đào tạo. Đối với những lĩnh vực mà chúng ta chưa có những giảng viên giỏi thì cần mạnh dạn mời các giảng viên nước ngoài có chuyên môn cao. Đồng thời, để nâng cao tính chuyên nghiệp của nhân viên hành nghề kinh doanh chứng khoán thì công tác cấp phép và quản lý người hành nghề kinh doanh chứng khoán cũng cần phải được điều chỉnh. Hiện nay, để được hành nghề kinh doanh chứng khoán thì người hành nghề phải có giấy phép do UBCKNN cấp. Chứng chỉ này hiện đang được cấp chung, khô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcq441908_ttck44_tran_thi_bich_ngoc_8292.pdf
Tài liệu liên quan