Sau những năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đó vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Ngày nay, các hoạt động sản xuất kinh doanh, các mối quan hệ kinh tế không chỉ bó hẹp trong nước mà lan rộng trên phạm vi toàn thế giới. Toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế của thời đại, chi phối sự vận động của tất cả các nền kinh tế. Nhận thức được điều đó, chính phủ Việt Nam đã chủ động tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bằng những hành động cụ thể: Gia nhập khối ASEAN, tham gia khối mậu dịch tự do ASEAN ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ và quan trọng là đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2006.
Trong tiến trình chung đó, cộng với các doanh nghiệp hệ thống NHTM Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội về nguồn lực, công nghệ, thị trường, đồng thời phải đối mặt với những thách thức cạnh tranh. NHTM là một chủ thể kinh doanh độc lập trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và cũng thực hiện công tác hạch toán kế toán hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, bảo lãnh trong NHTM còn rất non trẻ. Đặc biệt kinh doanh tiền tệ tín dụng, đặc biệt HĐBL mới được xuất ở việt nam, và phức tạp bởi ngành NH nước ta mới phát triển trong vài thập niên gần đây và NHTM là một loại hình doanh nghiệp do hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện, môi trường kinh tế chưa ổn định, các thủ tục hành chính phức tạp,.
HĐBL là hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho các NHTM. Do vậy, HĐBL là một hoạt động cần đặc biệt chú ý của NHTM trong những năm gần đây. Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHĐT & PT Nam Hà Nội, kết hợp với những kiến thức đã tiếp thu được tại ĐH kinh tế, xuất phát từ tầm quan trọng của HĐBL, tôi mạnh dạn chọn đề tài : “phát triển hoạy động bảo lãnh tại chi nhánh NH ĐT&PT nam Hà Nội” làm chuyên đề thực tập cho mình.
KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ : Gồm 3 chương cụ thể như sau:
Chương I: Hoạt Động Bảo Lãnh Tại Chi Nhánh Ngân Hàng ĐT&PT Nam Hà Nội.
Chương II: Trực Trạng Hoạt Động bảo Lãnh Của Chi Nhánh NH đT&PT Nam Hà Nội.
Chương III: Giải Pháp .
73 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1075 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạy động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Sau những năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đó vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Ngày nay, các hoạt động sản xuất kinh doanh, các mối quan hệ kinh tế không chỉ bó hẹp trong nước mà lan rộng trên phạm vi toàn thế giới. Toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế của thời đại, chi phối sự vận động của tất cả các nền kinh tế. Nhận thức được điều đó, chính phủ Việt Nam đã chủ động tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bằng những hành động cụ thể: Gia nhập khối ASEAN, tham gia khối mậu dịch tự do ASEAN ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ và quan trọng là đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2006.
Trong tiến trình chung đó, cộng với các doanh nghiệp hệ thống NHTM Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội về nguồn lực, công nghệ, thị trường, đồng thời phải đối mặt với những thách thức cạnh tranh. NHTM là một chủ thể kinh doanh độc lập trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và cũng thực hiện công tác hạch toán kế toán hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, bảo lãnh trong NHTM còn rất non trẻ. Đặc biệt kinh doanh tiền tệ tín dụng, đặc biệt HĐBL mới được xuất ở việt nam, và phức tạp bởi ngành NH nước ta mới phát triển trong vài thập niên gần đây và NHTM là một loại hình doanh nghiệp do hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện, môi trường kinh tế chưa ổn định, các thủ tục hành chính phức tạp,...
HĐBL là hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho các NHTM. Do vậy, HĐBL là một hoạt động cần đặc biệt chú ý của NHTM trong những năm gần đây. Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHĐT & PT Nam Hà Nội, kết hợp với những kiến thức đã tiếp thu được tại ĐH kinh tế, xuất phát từ tầm quan trọng của HĐBL, tôi mạnh dạn chọn đề tài : “phát triển hoạy động bảo lãnh tại chi nhánh NH ĐT&PT nam Hà Nội” làm chuyên đề thực tập cho mình.
Kết cấu của chuyên đề : Gồm 3 chương cụ thể như sau:
Chương I: Hoạt Động Bảo Lãnh Tại Chi Nhánh Ngân Hàng ĐT&PT Nam Hà Nội.
Chương II: Trực Trạng Hoạt Động bảo Lãnh Của Chi Nhánh NH đT&PT Nam Hà Nội.
Chương III: Giải Pháp .
chương I:
Hoạt Động Bảo Lãnh Tại Chi Nhánh
NH ĐT&PT Nam Hà Nội
1.1. Khái quát về NHTM
1.1.1. Khái niệm - đặc điểm NHTM
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế .Ngân hàng bao gồm nhiều loại, tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng , trong đó ngân hàng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng trong nền kinh tế hiện nay
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế , đặc biệt là chính sách tiền tệ , vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Ngân hàng thương mại là một loại tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng . Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là chỗ không chỉ chức năng của ngân hàng đang thay đổi mà chức năngcủa đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính- bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, các công ty môi giới chứng khoán, các quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố giắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại ngân hàng cũng đối phó với đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét tngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp . ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng là tổ chúc thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế– xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước, tỉnh, thành phố …) đối với các doanh ngiệp , ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy , mua sắm trang thiết bị .Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sủ dụng séc, uỷ nhiệm chi , thẻ điện tử hay tài khoản điện tử…và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính , họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng do chính phủ (thông qua mua các chứng khoán của chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phat triển
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng là một tổ chức tài chính tham gia nhiều hoạt động cung cấp cho công chúng và doanh nghiệp trong đó một số hoạt động chính của ngân hàng như sau:
a). Vốn chủ sở hữu :
Để bắt đầu hoặt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sủ dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành nguồn vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu năng lực tài chính của ngân hàng ,yêu cầu và sự phát triển.
Nguồn vốn hình thành ban đầu tùy theo tính chất của ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân sáh nhà nước cấp , nếu là ngân hàng cổ phần các cổ đông đóng gióp tthông qua cổ phần hay cổ phiếu . Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh đóng gióp. Ngân hàng tư nhân là vốn thuộc về sở hữu tư nhân.
Nguồn bố sung trong qúa trình hoạt động: trong qúa tình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể .
+) Nguồn từ lợi nhuận : Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách tích luỹ một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
+) Nguồn vốn từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng qui mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do NHNN qui định… đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song lại góp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết
Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ . mỗi quỹ có mục đích riêng.trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất, quỹ này được trích lập hàng năm và dược tích lũy lại nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị gía và mệnh gía cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tuy theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng có thể có các quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ giám đốc…
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: các khoản vay trung và dài hạn của NHTM mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa đất đai và có thể không phải trả khi đến hạn trả
b). Nghiệp vụ huy động tiền gửi:
Nguồn tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất đối với NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để gĩư và thanh toán hộ cho khách hàng, bằn cách đó ngân hàng đã huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Tiền gửi là nguồn quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
Tiền gửi thanh toán: Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc của cá nhân gửi vào NH để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép , các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu ,nhìn chung lãi suất của khoản tiền này rất thấp thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng, thủ tục làm rất đơn giản. yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản cho vay. Một số ngân hàng sử dụng nhiều “biến tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
Tiền gửi có kỳ hạn: nhiều khoản thu cố định của doanh nghiệp và dân cư sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền. Ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi kỳ hạn (có kỳ hạn và không kỳ hạn) người gửi thanh toán không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán đối với loại tiền gửi này. Khi cần chi tiêu người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suât cao hơn tuỳ theo độ dài kỳ hạn.
Đối với dân cư . các tầng lớp dân cư có các khoản thu nhập tạm thời chưa sủ dụng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm ngân hàng cố giắng làm thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà của dân cư bằng cách mở rộng mạng lưới huy động. đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn ngân hàng có thể mở cho mọi người tiết kiện nhiều chương mục tiết kiệm cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. tuy nhiên qui mô nguồn này thường không lớn.
c. Nguồn vay và các nghiệp vụ đi vay cảu NHTM
tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM tuy nhiên, khi cần ngân hàng thường vay mượn thêm, NHNN thường quy định tỷ lệ giữa nguồn huy động và vốn chủ. Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế
Vay NHNN: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM . Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay mượn NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu, các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền , ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ tăng lên. NHNN điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ: NHTM phải thực hiện các điều kiệm bảo đảm và kiểm soát nhất định. Trong trường hợp chưa có thương phiếu , NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
Vay các tổ chức tín dụng khác: Đay là nguồn vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có đự trữ vượt yêu cầu do có số dư tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìn kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn túc thời để đảm bảo thanh khoản. như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách trong nhiều trường hợp nó thay thế cho khoản vay mượn từ NHNN. Các khoản vay có thể không chế chấp hoặc chế chấp bằng các chứng khoán kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ trên thị trường vốn. Rất nhiều NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. thông thường các khoản vay không có bảo đảm. Các ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này: họ thường vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc được bảo lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào tình độ phát triển của thị trường tài chính tạo điều kiện chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. ghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô mệnh giá và thời hạn vay mượn thích hợp…
Các nguồn khác: bao gồn nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, uỷ nhiệm thu, chuyển tiền,ký gửi…
d. Các phương thức sử dụng vốn
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt động có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn về tài chính của ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến. Vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi ta thấy thanh tra ngân hàng thường xuyên kiểm tra cẩn thận danh mục cho vay của ngân hàng. đồng thời quá trình này cũng bao gồm việc đánh giá tính hiệu quả của chính sách tín dụng mà NH đang theo đuổi nhằm bảo vệ tiền gửi của công chúng
Theo điều 3 quyết định 1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001: cho vay là hình thức cấp tín dụng theo đó TCTD giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gồc và lãi.
NH cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau tương ứng với sự đa dạng trong mục đích vay vốn của khách hàng từ việc mua sắm tiêu dùng , học tập cho đến kinh doanh sản xuất. Chúng ta có thế sắp xếp danh mục cho vay rất đa dạng của NH bằng cách theo mục đích sử dụng vốn vay. Và chúng ta có thể chia các khoản cho như sau:
Cho vay tiêu dùng.
Cho vay kinh doanh bất động sản.
Cho vay đối với tổ chức tài chính.
Cho vay hỗ trợ nông nghiệp và các khoản khác dành cho nông dân.
Cho vay kinh doanh.
Tài trợ cho thuê.
Các khoản cho vay khác…
Phương thức cho vay là tổng hợp các cách tính toán cho vay, thu nợ dựa vào tính chất và cách xác định đối tượng cho vay. Việc áp dụng phương thức cho vay nào là phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh và nhu cầu về vốn của đối tượng xin vay. Một phương thức cho vay khoa học phải đảm bảo được nguyên tắc tín dụng đồng thời phải theo sát quy trình chu chuyển của vốn vay.
Trên thế giới hiện nay, các tổ chức tín dụng sử dụng rất nhiều phương thức cho vay phù hợp với từng đối tượng khách hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như quản lý các tổ chức. ở Việt Nam, các phương thức cho vay được quy định trong quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ban hành ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Trong quyết định này có quy định các phương thức cho vay của các tổ chức tín dụng như:
+ Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
+ Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
+ Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
+ Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ, rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
+ Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với các quy định tại quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm khách hàng vay.
e. Các hoạt động khác của NHTM:
Ngoài các nghiệp vụ trên NHTM còn có nhưng hoạt đông như bảo lãnh, trung gian tài chính, công cụ thực thi các chính sách tìên tệ của NHNN khi xảy ra lạm phát hay NHNN muốn tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng ra thị trường. Để bắt kịp sự phát triển của thị trường hiện nay các ngân hàng còn liên doanh liên kết, đầu tư vào các doanh nghiệp hay mở các công ty để sản xuất kinh doanh…
Đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế: Visa, Master card, séc du lịch….
Thực hiện dịch vụ ngân quỹ: Thu đổi ngoại tệ, chi trả tiền vốn, cung ứng tiền mặt.
Kinh doanh ngọai tệ.
Thực hiện bảo lãnh: Bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng, thanh toán, chất lượng…
Thực hiện các dịch vụ thanh toán chuyển tiền trong và ngoài nước.
Thực hiện các dịch vụ của ngân hàng điện tử và ngân hàng đối ngoại.
Thực hiện các dịch vụ của ngân hàng bán lẻ như: ATM, POS, Homebanking…
1.2 Hoạt động bảo lãnh của NHTM
1.2.1 Khái quát về hoạt động bảo lãnh của NHTM
Trong nền kinh tế hiện đại để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội về các loại hình hàng hoá, dịch vụ hoạt động thương mại đã diễn ra mạnh mẽ.
Các giao dịch kinh tế như trao đổi, mua bán, vay mượn, cam kết thực hiện hợp đồng kinh tế đang diễn ra thường xuyên với nhiều hình thức phong phú.Với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn cầu hoá, hoạt động thương mại đã vượt qua biên giới một nước. Doanh nghiệp thu được lợi ích to lớn từ hoạt động thương mại như: lợi nhuận, mở rộng quy mô nhưng bên cạnh đó doanh nghiệp còn phải đối mặt với rủi ro ngày càng nhiều, mức rủi ro ngày càng cao như rủi ro về kinh tế, chính trị, rủi ro thông tin không cân xứng, rủi ro không thực hiện hợp đồng, rủi ro chất lượng sản phẩm kém, rủi ro thanh toán, rủi ro đạo đức. Để hạn chế những rủi ro này, doanh nghiệp cần phải thu thập thông tin khoa học rồi lựa chọn đối tác kinh doanh an toàn nhất. Nhưng khi đó chi phí doanh nghiệp phải tự bỏ ra để tìm hiểu khách hàng là quá lớn, mất thời gian và để có đầy đủ thông tin về bạn hàng có thể sẽ mất đi cơ hội kinh doanh. Do đó, nền kinh tế đòi hỏi phải có một công cụ để hạn chế rủi ro và đảm bảo cho các giao dịch thương mại diễn ra an toàn, tăng sự tin cậy giữa các đối tác kinh doanh. Như vậy từ bản thân nền kinh tế xuất hiện nhu cầu có một sự đảm bảo trong giao dịch dẫn tới hình thức giao dịch đảm bảo với biểu hiện là sự đảm bảo của một bên thứ 3, có đủ tư cách và năng lực để dàn xếp, đảm bảo uy tín, tạo tín nhiệm cho đối tác.
Bảo lãnh xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 60 như một dạng thư tín dụng dự phòng. Khoảng những năm 70 Bảo lãnh được sử dụng trong các giao dịch quốc tế. Vào thời gian này các quốc gia thịnh vượng nhanh chóng vì sản xuất dầu hoả ở Trung Đông liên tục ký kết những hợp đồng kinh tế lớn để thực hiện các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng, dự án canh tân công nông nghiệp quốc phòng. Giá trị rất lớn của các hợp đồng đòi hỏi phải có một sự đảm bảo chắc chắn về phía đối tác khi tham gia vào giao dịch. Những bảo lãnh độc lập do ngân hàng phương Tây phát hành đã rhực sự đáp ứng yêu cầu về thuận lợi và an toàn cho các quốc gia xuất khẩu.
Từ những năm 70 trở đi, phạm vi áp dụng và doanh số bảo lãnh ngày càng tăng. Bảo lãnh không chỉ áp dụng trong giao dịch quốc tế mà còn cả với hợp đồng ký kết trong nước, cả trong hợp đồng thương mại và giao dịch tài chính, thuê mua, liên doanh. Bảo lãnh đã có mặt ở hầu hết các giao dịch lớn trong phạm vi nội địa và quốc tế.
Năm 1981, tổng số cam kết bảo lãnh của các ngân hàng Mỹ là 49 tỷ.
Năm 1995, tổng số cam kết bảo lãnh của các ngân hàng Mỹ là 250 tỷ.
Số tiền cho một bảo lãnh ngày càng tăng.
Tại Việt Nam nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh phát triển từ đầu những năm 90 nhưng do chưa có sự chỉ đạo thống nhất bằng văn bản pháp lý chặt chẽ nên hoạt đồng bảo lãnh vẫn chưa thực sự đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Để khắc phục ngày 17/9/92 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định 192/NH_QĐ về bảo lãnh, tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài nhằm đưa hoạt động bảo lãnh vào thống nhất.
Ngày 16/9/04 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định 196/QĐ_NH về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh tạo ra cơ chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ bảo lãnh .
Ngày 25/8/2000 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định 283/2000/QĐ_NH về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng để thay thế cho các quy chế trước đây.
Ngày 11/2/2003 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định 112/2003/QĐ_NH về sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế bảo lãnh ngân hàng kèm quyết định 283.
Đến nay hoạt động bảo lãnh ngân hàng phát triển nhanh chóng, hình thức ngày càng đa dạng, doanh số bảo lãnh ngày càng cao cho thấy tiềm năng phát triển nghiệp vụ này, đặc biệt trong quá trình hội nhập và toàn cầu hoá.
1.2.2 Phát triển hoạt động bảo lãnh của NHTM
1.2.2.1. Khái niện bảo lãnh
Theo quan niệm và tập quán chung, bảo lãnh là sự cam kết của người bảo lãnh đối với người hưởng bảo lãnh khi nhận được yêu cầu của người được bảo lãnh sẽ cam kết đền bù trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình làm thiệt hại đến quyền lợi của bên thụ hưởng.
Bảo lãnh thường xuyên xuất hiện khi một người muốn vay một khoản tiền hoặc muốn tham gia một hoạt động nào đó nhưng chưa có đủ độ tin cậy đối với đối tác của mình, do đó phải nhờ một người thứ ba có đầy đủ tài sản và uy tín đứng ra đảm bảo.
Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam tại điều 366 định nghĩa: “Bảo lãnh là việc bên thứ ba ( gọi là người bảo lãnh ) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ ( gọi là người được bảo lãnh ) nếu khi đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tài trợ thông qua uy tín ngân hàng. Thực chất là việc ngân hàng đưa ra cam kết dưới hình thức phát hành thư bảo lãnh. Ngân hàng không phải xuất tiền cho bên được bảo lãnh khi phát hành thư bảo lãnh nên nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng được coi là hình thức tín dụng gián tiếp, được hạch toán và theo dõi ngoại bảng. Chỉ khi nào phát sinh nghiệp vụ trả nợ thay hoặc đền bù các vi phạm phát sinh thì khoản tiền đó mới được đưa vào hạch toán nội bảng và ghi nhận là một khoản vay mới của khách hàng.
Theo quan điểm này bảo lãnh ngân hàng là một hình thức ”Tín dụng chữ ký- Signature Credit”, là hoạt động không dùng đến vốn của ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng được coi là một hình thức tín dụng gián tiếp và được coi là tài sản ngoại bảng.
Hiểu đơn giản, bảo lãnh ngân hàng là một hợp đồng kinh tế giữa một bên là ngân hàng bảo lãnh (Guarantor) và một bên là người thụ hưởng (Beneficiary) trong đó, bên bảo lãnh cam kết sẽ bồi hoàn một khoản tiền nhất định cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh (account party) vi phạm nghĩa vụ đối với người thụ hưởng và được quy định trong cam kết bảo lãnh .
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh gồm ít nhất ba chủ thể: người bảo lãnh, người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh. Nghiệp vụ bảo lãnh có thể được thực hiện bởi những tổ chức tài chính, các ngân hàng thương mại, các quỹ, tổ chức bảo hiểm.
Quy chế 283/2000/QĐ-NHNN14 quy định: ”B
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2657.doc