Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rất cao và ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,5%, cao nhất trong 10 năm vừa qua. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, thu nhập của người dân tăng theo cũng như đời sống của họ luôn được cải thiện, thị trường hàng hoá đa dạng vì thế xu hướng tiêu dùng của người dân ngày càng nhiều hơn, nhất là tầng lớp thanh niên.
Nhận đoán được xu hướng này, NHNo& PTNT Láng Hạ đã không ngừng mở rộng hoạt động nhằm vào mảng dịch vụ tài chính cho cá nhân. Đặc biệt với sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm cho vay tiêu dùng phục vụ khách hàng. Cho vay tiêu dùng chính là mảng thị trường lớn của ngân hàng. Dư nợ cho vay tiêu dùng liên tục tăng qua các năm. Tuy nhiên, lĩnh vực đang được coi là tiềm năng này vẫn chưa được khai thác triệt để, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.
Thời gian tới, khi thị trường ngân hàng Việt Nam mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh, phong cách phục vụ chuyên nghiệp vào đầu tư theo tiến trình hội nhập thì chắc chắn thị trường cho vay tiêu dùng sẽ sôi động hơn nữa, cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ gay gắt hơn.
Trong bối cảnh đó, để nâng cao và chiếm lĩnh thị phần cho vay tiêu dùng trong nước, đề tài được lựa chọn: “ Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng ở Chi nhánh Ngân hàng Nông nghịêp và Phát triển nông thôn Lánh Hạ”
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1 : Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng của NHNo&PTNT Láng Hạ.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNo&PTNT Láng Hạ.
64 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng ở Chi nhánh Ngân hàng Nông nghịêp và Phát triển nông thôn Lánh Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rất cao và ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 8,5%, cao nhất trong 10 năm vừa qua. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, thu nhập của người dân tăng theo cũng như đời sống của họ luôn được cải thiện, thị trường hàng hoá đa dạng vì thế xu hướng tiêu dùng của người dân ngày càng nhiều hơn, nhất là tầng lớp thanh niên.
Nhận đoán được xu hướng này, NHNo& PTNT Láng Hạ đã không ngừng mở rộng hoạt động nhằm vào mảng dịch vụ tài chính cho cá nhân. Đặc biệt với sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm cho vay tiêu dùng phục vụ khách hàng. Cho vay tiêu dùng chính là mảng thị trường lớn của ngân hàng. Dư nợ cho vay tiêu dùng liên tục tăng qua các năm. Tuy nhiên, lĩnh vực đang được coi là tiềm năng này vẫn chưa được khai thác triệt để, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.
Thời gian tới, khi thị trường ngân hàng Việt Nam mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh, phong cách phục vụ chuyên nghiệp vào đầu tư theo tiến trình hội nhập thì chắc chắn thị trường cho vay tiêu dùng sẽ sôi động hơn nữa, cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ gay gắt hơn.
Trong bối cảnh đó, để nâng cao và chiếm lĩnh thị phần cho vay tiêu dùng trong nước, đề tài được lựa chọn: “ Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng ở Chi nhánh Ngân hàng Nông nghịêp và Phát triển nông thôn Lánh Hạ”
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1 : Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng của NHNo&PTNT Láng Hạ.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNo&PTNT Láng Hạ.
CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niêm và đặc điểm của ngân hàng thương mại
Đối với hầu hết chúng ta, ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng. Với sự hiện hữu của ngân hàng, các cá nhân, hộ gia đình có thể nhận được các khoản vay để trang trải chi phí học tập, mua sắm ô tô, đồ dùng gia đình, sửa chữa và xây dựng nhà cửa. Với các hãng kinh doanh, các khoản vay của ngân hàng được coi như nguồn tài trợ hiệu quả khi cần bổ sung vốn để mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng là một địa chỉ đáng tin cậy nếu chúng ta muốn cất giữ tiền hay mong nhận được lời khuyên về lĩnh vực đầu tư cho khoản tiền tiết kiệm.
Ngày nay, hoạt động của ngân hàng không ngừng phát triển trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho đến sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng quy mô lớn có thể cho vay đối với hàng triệu người tiêu dùng và số lượng lớn các cơ quan, chính quyền địa phương.
Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường trái phiếu và tín phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các công trình công cộng từ hội trường, sân bóng cho đến sân bay, đường cao tốc …
Có thể nói rằng, mỗi chủ thể trong nền kinh tế dù trực tiếp hay gián tiếp đều ít nhất một lần được hưởng những lợi ích do hoạt động của ngân hàng mang lại. Vậy ngân hàng là gì?
Do hoạt động ngân hàng có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế nên khó có thể đưa ra một khái niệm thống nhất về ngân hàng mà tuỳ thuộc mục đích và khía cạnh nghiên cứu. Khi xét trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp, ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Song dưới giác độ nghiên cứu của một nhà quản lý, chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về ngân hàng như sau “ Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng,, tiết kiệm , dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Từ định nghĩa trên ta thấy ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp đầy đủ nhất các dich vụ tài chính cho nền kinh tế. Chính sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng là cơ sở để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi và cho vay. Ngân hàng đứng ra làm trung gian giúp cho các tổ chức, cá nhân có thặng dư về vốn gặp được các tổ chức, cá nhân có thâm hụt về vốn hay có nhu cầu đầu tư. Ngân hàng đã dung hòa các nhu cầu khác nhau của họ về quy mô, thời gian và không gian... cho phù hợp với mục đích của mỗi bên.
1.1.2 Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Theo trên thì các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại gồm: huy động vốn, cấp tín dụng và đầu tư, cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác.
Huy động vốn: là việc tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại, ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi và thanh toán cho khách hàng bằng cách đó ngân hàng đã huy động được nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế. Để khuyến khích khách hàng gửi tiền ngân hàng đã trả lãi tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tiền tạm thời để kinh doanh.
Ngân hàng có thể huy động vốn bằng nhiều nguồn khác nhau như: tiền gửi của khách hàng, từ tổ chức tài chính khác, từ ngân hàng trung ương... Nhưng nguồn quan trọng nhất là tiền gửi của khách hàng. Có thể nói hoạt động đầu tiên của ngân hàng chính là hoạt động huy động vốn và cũng là hoạt động đóng vai trò quan trọng, quyết định tới chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Tín dụng và đầu tư: cũng như tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế thì ngân hàng cũng thực hiện các hoạt động của mình nhằm mục đích lợi nhuận. Do đó bằng nguồn vốn huy động được ngân hàng thực hiện các hoạt động cho vay, đầu tư, trung gian... nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Hoạt động mang lại lợi nhuận chính cho ngân hàng là hoạt động tín dụng. Đó là việc ngân hàng tài trợ cho khách hàng dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính …đây là hoạt động đặc trưng cơ bản và quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.
Hoạt động đầu tư chủ yếu của ngân hàng là đầu tư chứng khoán. Đây là loại tài sản có tính thanh khoản cao mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Và nó còn được coi như là dự trữ thứ cấp của ngân hàng thương mại vì khi cần ngân hàng có thể bán đi thu tiền mặt về ngân quỹ. Ngân hàng giữ nhiều loại chứng khoán khác nhau như: chứng khoán của Chính phủ Trung ương hoặc địa phương ( do Kho bạc Nhà nước phát hành), chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính, chứng khoán của các công ty khác.
Các dịch vụ ngân hàng khác : bên cạnh các dịch vụ cơ bản mang tính truyền thống nói trên ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ khác như: đại lý, ủy thác tư vấn, bảo hiểm, bao lãnh, tư vấn đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ, dịch vụ thanh toán… những hoạt động này làm phong phú thêm tiện ích mà ngân hàng đem lại cho nền kinh tế, đồng thời nó cũng mang lại nguồn lợi nhuận không nhỏ cho ngân hàng.
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khái niệm về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
“ Tín dụng có thể được hiểu là quan hệ vay mượn theo đó một bên chuyển giao ( hoặc có thể là sẽ chuyển giao trong một số trường hợp đặc biệt, ví dụ như bảo lãnh) cho bên kia sử dụng trong một thời hạn nhất định một khoản vốn tiền tệ hoặc tài sản khác với điều kiện phải hoàn trả khoản vốn tiền tệ hay tài sản đó và một khoản lãi nhất định ( và phí tín dụng nếu cớ) sau một thời gian nhất định.
Hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng, do đó gắn tín dụng với các chủ thể nhất định thì tín dụng sẽ có những định nghĩa khác nhau.
Với chủ thể là ngân hàng ( hoặt các trung gian khác) tín dụng lại có định nghĩa như sau “Tín dụng là một giao dịch về tài sản( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay ( ngân hàng các các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh toán”.
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa các tổ chức tín dụng ( bên cho vay, bên cho thuê tài chính, bên nhận chiết khấu) với các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng”.
Hoạt động tín dụng trong ngân hàng thường được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau như: theo hình thức cấp tín dụng, theo thời gian, theo thành phần kinh tế, theo mức độ rủi ro, theo khách hàng vay vốn, theo mục đích sử dụng vốn…Phân chia tín dụng theo mục đích sử dụng vốn bao gồm: tín dụng sản xuất và tín dụng tiêu dùng.
1.2.2 Quy trình tín dụng của ngân hàng thương mại
Với mỗi ngân hàng khác nhau thì họ đều xây dựng cho mình một quy trình riêng thống nhất trên cơ sở phù hợp với lĩnh vực hoạt động của từng ngân hàng, tuân theo các quy định về tín dụng ngân hàng của NHNN Việt Nam và pháp luật của nhà nước. Nhằm giúp cho quá trình cho vay diễn ra một các thống nhất, khoa học, hạn chế rủi ro tín dụng, từng bước đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng. Tuy vậy quy trình tín dụng của một ngân hàng thương mại thường theo có kết cấu như sau:
Bước 1: Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ
Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm hướng dẫn khách hàng lập và hoàn thiện hồ sơ vay vốn. Hồ sơ gồm có: giấy đề nghị vay vốn ( theo hướng dẫn của ngân hàng), hồ sơ pháp lý về khách hàng, hồ sơ về tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính, hồ sơ về dự án vay vốn, hồ sơ về đảm bảo tiền vay.
Bước 2: Phân tích trước khi cấp tín dụng: đây là bước quan trọng nhất quyết định tới chất lượng tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập thông tin và phân tích thông tin về khách hàng nhằm ra quyết định có cho khách hàng vay hay không? Và nếu cho vay thì kèm thêm những điều kiện gì ?
-Thu thập thông tin: chủ yếu thông qua các các nguồn sau:
. Phỏng vấn trực tiếp bao gồm gặp gỡ người vay, nói chuyện với giám đốc với người lao động, thăm quan nhà xưởng cơ sở vật chất. Nhằm loại trừ được báo cáo “ma” thông qua cảm nhận đang diễn ra.
. Mua thông tin thông qua các trung gian, cơ quan quản lý, chủ nợ khác, qua bạn hàng, hay khách hàng của ngân hàng…
. Thông qua các báo cáo của người vay và nhất là hồ sơ về dự án vay vốn.
Nội dung phân tích
Dựa vào các báo cáo tài chính của doanh nghiệp và tình hình kinh doanh cũng như tiền lương, thu nhập khác của cá nhân hộ gia đình mà cán bộ ngân hàng có tính toán được khả năng thực hiện khoản vay của khách hàng.
Thông qua các thông tin đó thì cán bộ tín dụng có thế đánh giá được những vấn đề cơ bản và quan trọng sau:
. Về tài sản của khách hàng: ngân quỹ như thế nào, có đáp ứng được khả nảng thanh khoản nợ ngắn hạn không? Chứng khoán có giá,hàng hóa trong kho và tài sản cố định có tính thanh khoản không và chất lượng ra sao? Nó thường là đối tượng quan tâm khi tài trợ trung và dài hạn.
. Về các khoản nợ: thời gian các khoản nợ cũ của khách hàng như thế nào? Lịch sử vay nợ của khách hàng có tốt không? Các khoản nợ ưu đãi và tài sản đảm bảo như thế nào?…
. Về luồng tiền: chu kỳ kinh doanh của khách hàng ra sao? Luồng tiền ra vào như thế nào? Nguồn tiền thu từ hoạt động bán hàng và dịch vụ cũng như các như kế hoạch thu chi trong tương lai ra sao?
. Về các tỷ lệ đánh giá khách hàng: như tỷ lệ thanh khoản ngắn hạn, trung dài hạn? nhóm tỷ lễ sinh lời phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận để trả nợ của khách hàng. Tỷ lệ về rủi ro, lĩnh vực khách hàng hoạt động độ rủi ro cao không?…
. Về các điều kiện kinh tế: vì các chỉ tiêu ở trên đều đánh giá quá khứ và thực trạng của khách hàng, do đó chỉ tiêu các điều kiện kinh tế cho các cán bộ tín dụng biết khả năng trong tương lai của khách hàng và các yếu tố ảnh hưởng tới khách hàng trong tương lai như thế nào?
Bước 3: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng: hợp đồng tín dụng là văn bản ghi lại thỏa thuận của người nhận tài trợ (khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cung cấp cho khách hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định.
Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật thể hiện quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia. Do vậy cả ngân hàng và khách hàng đều phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi kí kết hợp đồng. Nội dung cơ bản của hợp đồng tín dụng :
. Khách hàng: Họ tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân
. Mục đích sử dụng khoản vay
. Lãi suất : hợp đông phải ghi rõ mức lãi suất, loại lãi suất, điều kiện thay đổi lãi suất
. Phí : mức phí và các điều kiện nộp phải được thể hiện rõ trong hợp đồng
. Thời hạn tín dụng : là khoảng thời gian mà ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng cỏ thể được tính từ lức đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho tới lúc đồng vốn cuối cùng và lãi được thu về
. Các loại đảm bảo: phải ghi rõ các loại đảm bảo nếu có và xác định rõ quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng, định giá, bảo hiểm, …
. Giải ngân : hợp đồng tín dụng thường xác định thời hạn và điều kiện giải ngân
. Điều kiện thanh toán: là cách thức khách hàng thanh toán cả gốn và lãi
. Điều kiên khác : gồm các thỏa thuận về ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp, nộp báo cáo định kì, phạt vi phạm hợp đồng…
Bước 4: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng
Đây là quá trình ngân hàng thực hiện việc cấp tín dụng cho khách hàng như thỏa thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng là ngân hàng kiểm soát khách hàng : sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ không? Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có gì biến động không? Ngân hàng có quyền thu nợ trước hạn nếu như hợp đồng tín dụng bị vi phạm và có thể yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản thế chấp…Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm thông tin và có quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bước 5: Thu nợ và đưa ra các phán quyết tín dụng
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn và đầy đủ thì ngân hàng phải xem xét tìm ra nguyên nhân giúp ngân hàng đưa ra các quyết định mới liên quan tới tính an toàn của khoản tín dụng.
Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo, nợ nần dây dưa hoặc làm ăn thua lỗ không có khả năng trả nợ thì ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng biện pháp có thể để thu hồi nợ.
Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
1.2.3 Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.3.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá. Hình thức cho vay tiêu dùng của các hãng là bán trả góp. Một số hãng đã phải vay ngân hàng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt.
Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển...
Có thể hiểu “cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng thoả thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định”.
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng rất hữu ích nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu, mua sắm, sửa chữa nhà cửa… của các cá nhân, hộ gia đình. Các khoản vay này giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có được một cuộc sống với chất lượng cao hơn như mua xe, mua nhà, nghỉ ngơi, du lịch…
1.2.3.2 Đặc điểm của các khoản vay tiêu dùng
Từ trước đến này, cho vay tiêu dùng vẫn được các ngân hàng coi là khoản mục mạng lại lợi nhuận khá cao với lãi suất “ cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các khoản vay kinh doanh hiện nay với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường, như vậy với cho vay tiêu dùng ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động tăng lên. Nếu người vay bị ốm, chết, hoặc bị mất việc, ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Hơn thế nữa, nhiều khoản cho vay với thời hạn dài ( mua nhà thế chấp). Nên khoản mục cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất và rủi ro cao nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá rất cao ( vì đã bao hàm cả một phần rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Nhiều ngân hàng lớn lập phòng cho vay tiêu dùng để chuyên theo dõi cho vay tiêu dùng. Bên cạnh đó ngân hàng thường yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm hàng hoá đã mua...
Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Nó tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế mở rộng, khi mà mọi người dân cảm thấy lạc quan về tương lai. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá nhân và hộ gia đình cảm thấy không tin tưởng nháat là khi họ thấy tình trạng thất nghiệp tăng lên và họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ ngân hàng.
Hơn nữa khi vay tiền, người tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất. Người tiêu dùng quan tâm đến khoản tiền họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất ( mặc dù rõ ràng chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh hưởng đến quy mô số tiền phải trả). Trong khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố quan trọng mà hộ gia đình vay tiền quan tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động rất lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của người tiêu dùng. Những người có thu nhập cao có xu hướng vay nhiều hơn sơ với thu nhập hàng năm của mình. Những gia đình mà người chủ gia đình hay người tạo thu nhập chính có học vấn cao cũng như vậy. Với họ, việc vay mượn được xem là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là một lựa chọn chỉ được dùng trong tình trạng khẩn cấp.
1.2.3.3 Khái niệm phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng
Chính vì triển vọng về lợi nhuận do hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại mà dù phải đối mặt với khá nhiều rủi ro nhưng các ngân hàng trên toàn thế giới hiện nay đều hướng sự quan tâm vào hoạt động này. Nó được coi như là một trong những chiến lược kinh doanh của các ngân hàng trong thời gian tới.
Vậy phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng ở đây được hiểu thế nào? Đó chính là sự mở rộng về quy mô cho vay tiêu dùng và chất lượng cho vay tiêu dùng được nâng cao.
Sự tăng lên về số lượng các khoản cho vay tiêu dùng thể hiện việc quy mô cho vay tiêu dùng được mở rộng, doanh số cho vay tiêu dùng trong kỳ cũng như dư nợ cuối kỳ tăng, tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng tăng...
Mở rộng quy mô cho vay tiêu dùng luôn phải dựa trên cơ sở nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng. Chất lượng của các khoản cho vay tiêu dùng được nâng cao thể hiện ở việc đa dạng hoá đối tượng cho vay tiêu dùng, đa dạng hoá mục đích cấp tín dụng, đưa ra nhiều hình thức cho vay linh hoạt, lợi nhuận của hoạt động cho vay tiêu dùng liên tục tăng đồng thời chi phí cho vay tiêu dùng được giảm tới mức tối thiểu, tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng ở mức thấp....
1.2.3.4 Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Sự phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng được các ngân hàng thương mại đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
a. Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng
Dư nợ cho vay tiêu dùng
Tỷ trọng dư nợ = ---------------------------------
cho vay tiêu dùng Tổng dư nợ cho vay
Dư nợ cuối kỳ = Dư nợ đầu kỳ + Doanh số cho vay – Doanh số thu nợ
trong kỳ trong kỳ
Chỉ tiêu này mới chỉ phản ánh về mặt số lượng chứ chưa nói lên mặt chất lượng của các khoản cho vay tiêu dùng. Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng cho biết dư nợ cho vay tiêu dùng chiếm bao nhiêu % trong tổng dư nợ. Dư nợ cho vay tiêu dùng, tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng tăng chứng tỏ quy mô cho vay tiêu dùng được mở rộng, khả năng cho vay tiêu dùng của ngân hàng tăng. Hoạt động cho vay tiêu dùng đang được ngân hàng chú trọng phát triển, cho vay tiêu dùng là một trong những hoạt động có tiềm năng phát triển mà ngân hàng cần khai thác.
b. Chỉ tiêu lợi nhuận
Chỉ tiêu lợi nhuận luôn nói lên sự phát triển của một hoạt động sản xuất kinh doanh và với hoạt động cho vay tiêu dùng thì nó cũng không nằm ngoài số đó
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Nếu hoạt động cho vay tiêu dùng có doanh thu tăng cao, chi phí cho việc thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng thấp thì lợi nhuận cho vay tiêu dùng sẽ tăng. Nó thể hiện có sự tăng lên cả về số lượng và nhất là chất lượng của hoạt động cho vay tiêu dùng. Từ đó đánh giá được sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng.
c. Chỉ tiêu nợ quá hạn: ngân hàng luôn hướng tới mục tiêu thu đủ gốc và lãi khi tới hạn. Nhưng không phải khoản vay nào cũng thực hiện được mục tiêu đó. Trong hoạt động cho vay tiêu dùng cũng vậy tỷ lệ nợ quá hạn thường rất cao do tính chất rủi ro của nó. Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu đánh giá khá đầy đủ về chất lượng của hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong đó :
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Với một tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý và ở mức thấp chứng tỏ sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại phát triển bền vững và ổn định.
d. Tỷ lệ tăng trưởng cho vay tiêu dùng
Tỷ lệ này tăng chứng tỏ ngân hàng thực hiện cho vay tiêu dùng năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên nhiều khi ta cần xét nó trong tỷ lệ tăng trưởng chung của toàn bộ các hoạt động cho vay khác nhằm đánh giá chính xác và toàn diện hơn về tỷ lệ tăng trưởng cho vay tiêu dùng.
Ngoài ra để đánh giá sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng, ta có thể dựa vào sự đa dạng của các hình thức cho vay tiêu dùng, đối tượng cho vay tiêu dùng và sự mở rộng về mục đích cho vay tiêu dùng....
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
Trình độ cán bộ tín dụng
Trình độ cán bộ ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Đặc biệt đối với hoạt động cho vay tiêu dùng yếu tố rủi ro là rất lớn vì vậy mà càng đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
Cán bộ tín dụng sẽ thực hiện phân tích và đánh giá để lựa chọn những khảon cho vay có hiệu quả và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Cán bộ tín dụng trình độ yếu kém sẽ không xác định được chính xác thu nhập, tình hình tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng từ đó sẽ những quyết định cho vay gây ra rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng, đẩy ngân hàng đến nguy cơ mất vốn.
Trình độ cán bộ tín dụng ngoài việc phải giỏi về chuyên môn nghiệp vụ còn là phẩm chất đạo đức. Cán bộ tín dụng tiếp xúc và làm việc trong môi trường tiền bạc, dễ bị mua chuộc, vì tư lợi cá nhân mà làm tổn hại cho cả ngân hàng và khách hàng.
Trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt, khách hàng có nhiều sự lựa chọn người cung cấp dịch vụ thoả mãn nhu cầu của mình. Chính vì vậy, muốn thu hút được khách hàng đến với ngân hàng để phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng điều mà ngân hàng cần chú ý xây dựng là hình ảnh một ngân hàng với đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi chuyên môn nghiệp vụ, tác phong phục vụ chuyên nghiệp, niềm nở, cung cấp dịch vụ nhanh chóng - tiết kiệm thời gian cho khách hàng.
b. Chính sách tín dụng
Định hướng cụ thể và chính sách tín dụng hướng tới thỏa mãn các nhu cầu của người tiêu dùng là yếu tố có tính chất quyết định tới sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và các hoạt đông khác nói chung. Vì chỉ có các chính sách kế hoạch cụ thể thì các nguồn lực nhằm phát triển nó mới được tập trung để hoàn thành kế hoạch đó. Các chính sách được xây dựng mang tính khoa học phù hợp với thực tiễn thị trường còn có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng.
Thẩm định tín dụng
Kỹ thuật và thủ tục thẩm định hiệu quả và không rườm rà, phức tạp, với thời gian ngắn là một trong những phương thức quan trọng để thu hút khách hàng. Thẩm định tín dụng nhằm đưa ra các đánh giá đúng đắn về khách hàng, về các khoản vay, từ đó có các quyết định cho vay đúng đắn. Một hệ thống kỹ thuật thẩm định hợp lý, khoa học, thống nhất là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định và do đó quyết định chất lượng khoản vay.
Khả năng huy động vốn
Khả năng huy động vốn của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới kỳ hạn, lãi suất và hạn mức cho vay của ngân hàng tới khách hàng. Điều đó cũng đã đủ nói lên yếu tố này có tác động như thế nào tới hoạt động cho vay tiêu dùng. Mặt khác nếu nguồn vốn lớn phong phú thì ngân hàng có thể đễ dàng mở rộng quy mô và đa dạng hóa sản phẩm cho vay tiêu dùng của mình.
e. Công nghệ ngân hàng
Công nghệ hiện đại là yếu tố giúp ngân hàng có thể thực hiện được các nghiệp vụ ngân hàng một cách nhanh chóng hiệu quả hơn. Nó giúp cho thời gian để ngân hàng và khách hàng tìm thấy nhu c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2655.doc