Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước đặc biệt là từ Đại hội lần thứ VI của Đảng được ghi nhận như một bước ngoặt với sự chuyển đổi cơ chế. Từ đó, việc phát triển giao lưu thương mại giữa các nước như là một điều tất yếu. Hoạt động xuất nhập khẩu đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển đất nước. Cùng với những thuận lợi khi đất nước mở cửa thì các doanh nghiệp trong nước nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng đang gặp một áp lực rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh. Sự suy kém về vốn, kinh nghiệm, trình độ hạn chế của cán bộ công nhân viên cũng như trang thiết bị cơ sở đã tạo nên một khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, xuất khẩu như là một xu hướng tất yếu để thúc đẩy đất nước phát triển. Để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao thì một công việc tất yếu và đầu tiên đó là công tác tạo nguồn hàng phải được thực hiện tốt. Vì vậy vấn đề quan trọng là phải tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Trong quá trình thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà (HAFOREXIM) , qua một thời gian tìm hiểu, học hỏi cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ công nhân viên trong công ty, dưới sự hướng dẫn và định hướng của cô giáo – Tiến sĩ Ngô Kim Thanh và tự bản thân thấy được sự quan trọng của công tác tạo nguồn hàng nên em đã chọn đề tài: “Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu ở Công ty Thanh Hà” làm báo cáo chuyên đề thực tập của mình.
Nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp bao gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
Phần II: Thực trạng hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu ở công ty Thanh Hà.
Phần III: Một số biện pháp nhằm năng cao hiệu quả của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu ở Công ty Thanh Hà.
88 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1161 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu ở Công ty Thanh Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đề tài : Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu
mua tạo nguồn hàng xuất khẩu ở Công ty Thanh Hà.
Lời mở đầu
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước đặc biệt là từ Đại hội lần thứ VI của Đảng được ghi nhận như một bước ngoặt với sự chuyển đổi cơ chế. Từ đó, việc phát triển giao lưu thương mại giữa các nước như là một điều tất yếu. Hoạt động xuất nhập khẩu đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển đất nước. Cùng với những thuận lợi khi đất nước mở cửa thì các doanh nghiệp trong nước nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng đang gặp một áp lực rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh. Sự suy kém về vốn, kinh nghiệm, trình độ hạn chế của cán bộ công nhân viên cũng như trang thiết bị cơ sở đã tạo nên một khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, xuất khẩu như là một xu hướng tất yếu để thúc đẩy đất nước phát triển. Để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao thì một công việc tất yếu và đầu tiên đó là công tác tạo nguồn hàng phải được thực hiện tốt. Vì vậy vấn đề quan trọng là phải tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Trong quá trình thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà (HAFOREXIM) , qua một thời gian tìm hiểu, học hỏi cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ công nhân viên trong công ty, dưới sự hướng dẫn và định hướng của cô giáo – Tiến sĩ Ngô Kim Thanh và tự bản thân thấy được sự quan trọng của công tác tạo nguồn hàng nên em đã chọn đề tài: “Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu ở Công ty Thanh Hà” làm báo cáo chuyên đề thực tập của mình.
Nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp bao gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
Phần II: Thực trạng hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu ở công ty Thanh Hà.
Phần III: Một số biện pháp nhằm năng cao hiệu quả của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu ở Công ty Thanh Hà.
Phần I :
nâng cao hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là nhân tố cơ bản tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tồn tại và phát triển
I. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu :
1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
1.1. Khái niệm hiệu quả và những quan điểm về hiệu quả :
Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều khái niệm khác nhau:
- Hiệu quả tổng hợp là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện mọi mục tiêu mà chủ thể đạt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó.
- Hiệu quả kinh tế là hiệu quả nếu chỉ xét về khía cạnh kinh tế của vấn đề, là một nội dung đặc biệt của hiệu quả tổng hợp có ý nghĩa quyết định trong hoạt động kinh tế của các chủ thể khác nhau.
Hiệu quả kinh tế mô tả mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế đó.
Biểu hiện của lợi ích và chi phí kinh tế phụ thuộc vào chủ thể và mục tiêu mà chủ thể đặt ra. Đối với chủ thể doanh nghiệp, đó có thể là doanh thu bán hàng và những chi phí gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để có được doanh thu bán hàng đó. Đối với Nhà nước, lợi ích kinh tế không chỉ bó hẹp trong một doanh nghiệp mà được xem xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế v.v…
- Hiệu quả chính trị xã hội là hiệu quả mà chủ thể nhận được trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Chẳng hạn, giải quyết công ăn việc làm, công bằng xã hội, môi trường …
- Hiệu quả trực tiếp là hiệu quả được xem xét trong phạm vị chỉ một dự án, một doanh nghiệp (một đối tượng).
- Hiệu quả gián tiếp là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho một đối tượng khác.
Việc xây dựng một dự án này có thể kéo theo việc xây dựng hàng loạt các dự án khác - Hiệu quả của dự án đang xem xét là hiệu quả trực tiếp còn hiệu quả của các dự án khác là hiệu quả gián tiếp.
- Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Trong đó, hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí, còn hiệu quả tương đối được đo bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí.
Lợi nhuận ròng hàng năm được xem như là hình thức của hiệu quả tuyệt đối, tỉ suất lợi nhận là hình thức của hiệu quả tương đối.
Qua các quan điểm về hiệu quả trên có khái niệm về hiệu quả:
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
Nếu ký hiệu:
K là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau.
C là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau.
E là hiệu quả.
ta có công thức hiệu quả chung là:
E = K- C (1) Hiệu quả tuyệt đối.
E = K/ C (2) Hiệu quả tương đối.
Một cách chung nhất, kết quả K mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí C bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu.
Từ khái niệm về hiệu quả đó có thể hiểu : Hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp xuất nhập khẩu và chi phí mà doanh nghiệp đó bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định.
1.2. ý nghĩa :
Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương án hành động.Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình vào thị trường, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay đặt các doanh nghiệp trong sự cạnh tranh gay gắt. Do đó để tồn tại được đòi hỏi các doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả hơn. Đứng trên góc độ của doanh nghiệp mà xem xét thì hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó được thể hiện thông qua:
- Môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi, đồi hỏi những nỗ lực không ngừng để tồn tại và phát triển đặc biệt là trong kinh tế thị trường hiện nay. Nếu doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả sẽ tự động bị đào thải. Vì vậy việc tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một tất yếu khách quan.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và sự tiến bộ trong kinh doanh. Kinh doanh trong cơ chế thị trường là chấp nhận cạnh tranh. Thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn, không chỉ về mặt hàng mà cả về chất lượng, giá cả…Một khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp là phát triển thì cạnh tranh, một mặt có thể làm cho doanh nghiệp mạnh lên, mặt khác cũng có thể bóp chết doanh nghiệp trên thị trường. Để không bị gục ngã, tức là để chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp phái có hàng hoá, dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đó là hạt nhân cơ bản cho sự thắng lợi trong cạnh tranh.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh là động lực thúc đẩy, kích thích người lao động hăng say sản xuất luôn quan tâm đến kết quả lao động của mình và như vậy sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng đồng nghĩa với việc nâng cao đời sống người lao động trong doanh nghiệp. Nâng cao đời sống người lao động sẽ tạo động lực trong sản xuất làm tăng năng suất góp phần năng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Với những ý nghĩa to lớn trên đòi hỏi các daonh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và phải nhận thức được hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
1.3. Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân.
Xét theo góc độ chủ thể nhận được kết quả (lợi ích) và bỏ chi phí để có được kết quả đó, có khái niệm hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân :
- Hiệu quả tài chính :
Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả sản xuất - kinh doanh hau hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, những nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến thu, chi có liên quan trực tiếp.
- Hiệu quả kinh tế quốc dân :
Hiệu quả kinh tế quốc dân còn được gọi là hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả tổng hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn bộ xã hội mà người đại diện cho nó là Nhà nước, vì vậy những lợi ích và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm toàn bộ nền kinh tế.
- Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân :
Hiệu quả tài chính là mối quan tâm của các doanh nghiệp hoặc của những nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế quốc dân là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại diện là Nhà nước. Hiệu quả tài chính được xem xét theo quan điểm của doanh nghiệp, còn hiệu quả kinh tế quốc dân được xem xét theo quan điểm của toàn xã hội. Hiệu quả tài chính xét theo quan điểm bộ phận, còn hiệu quả kinh tế quốc dân xét theo quan điểm toàn thể.
Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân là quan hệ giữa lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Đó là mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn.
1.4. Hiệu trước mắt và hiệu quả lâu dài.
Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn. Lợi ích được xem xét trong loại hiệu quả này là lợi ích trước mắt, mang tính tạm thời. Còn hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian dài.
2.Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu:
2.1. Doanh số mua vào, doanh số bán ra:
Doanh số là chỉ tiêu thể hiện khái quát ban đầu về hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty qua từng năm cũng như từng thời kỳ. Qua kết quả này có thể đánh giá sơ lược về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2. Danh mục mặt hàng:
Chỉ tiêu này tính bằng tỷ số mặt hàng mà Công ty tiến hành thu mua có khả năng thâm nhập và phát triển ở thị trường nước ngoài.Thông qua danh mục mặt hàng có thể đánh giá hiệu quả của từng loại mặt hàng. Từ đó có thể xem xét đầu tư thêm đối với mặt hàng kinh doanh có hiệu quả hoặc giảm bớt, thậm chí loại bỏ việc kinh doanh những mặt hàng kém hoặc không có hiệu quả.
2.3. Mức tăng kim ngạch xuất khẩu ( M ):
M = Tổng kim ngạch năm thực hiện x 100 %
Tổng kim ngạch năm trước
Mức tăng kim ngạch xuất khẩu cho thấy mức độ tăng hoặc giảm (bằng tỉ lệ phần trăm) của kim ngạch xuất khẩu năm thực hiện so với năm trước, so sánh để thấy được xu hướng xuất khẩu cũng như sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu làm cơ sở để cải tạo tình hình kinh doanh nói chung.
2.4. Doanh lợi ( P ):
P = Kim ngạch xuất khẩu – Giá mua – Chi phí
Doanh lợi là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện kết quả kinh doanh. Doanh lợi biểu hiện dưới hai dạng số tuyệt đối (gọi là khoản doanh lợi) và tương đối (gọi là tỷ suất doanh lợi). Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện kết quả cuối cùng hiệu quả kinh doanh của Công ty. Lợi nhuận nhiều hay ít đều ảnh hưởng trực tiếp tới đầu tư sản xuất, tích luỹ và đời sống cán bộ công nhân viên của Công ty.
2.5. Tỷ suất doanh lợi ( p):
p = P x 100 %
Kim ngạch xuất khẩu
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả của doanh nghiệp đã tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng doanh thu bán hàng, từ đó tìm biện pháp giảm chi phí sao cho tỷ suất lợi nhuận là nhiều nhất. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tăng doanh thu, giảm chi phí. Nhưng để có hiệu quả thì tốc độ tăng doanh thu phải nhỏ hơn tốc độ tăng lợi nhuận.
2.6. Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp:
Đây là những chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung của doanh nghiệp đã được thực hiện như thế nào. Nó được dùng để phản ánh chính xác hoạt động kinh doanh của mỗi danh nghiệp và được dùng để so sánh các doanh nghiệp với nhau và so sánh trong doanh nghiệp qua các thời kỳ để xem xét qua các thời kỳ doanh nghiệp có đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn hay không như chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên chi phí, doanh thu trên chi phí sản xuất.
3. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu:
Sau khi xác định được các chỉ tiêu, để đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu phải dùng các chỉ tiêu để so sánh. Các phương pháp thường dùng là phưong pháp so sánh tuyệt đối và so sánh tương đối.
3.1. Phương pháp so sánh tuyệt đối:
Phương pháp này cho biết được khối lượng, quy mô tăng giảm của doanh nghiệp qua các thời kỳ phân tích.
Mức tăng giảm tuyệt = Trị số chỉ tiêu - Trị số chỉ tiêu
đối của các chỉ tiêu kỳ phân tích kỳ gốc
Mức tăng giảm trên chỉ phản ánh về mặt lượng, thực chất của việc tăng giảm trên chưa nói lên được là có hiệu quả, tiết kiệm hay lãng phí. Phương pháp này thường được dùng kèm với các phương pháp khác khi đánh giá hiệu quả qua các thời kỳ.
3.2. Phương pháp so sánh tương đối:
Phương pháp này có 3 dạng:
* Dạng giản đơn:
Tỷ lệ so sánh = ( G1/Go) x 100 %
Trong đó: G1: Trị số chỉ tiêu kỳ phân tích.
Go: Trị số chỉ tiêu kỳ gốc.
Nếu kết quả > 100 % thì doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và ngược lại.
Dạng có liên hệ:
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các bộ phận…Do vậy dạng giản đơn chỉ phản ánh hiệu quả kinh doanh một cách đơn thuần.
Tỷ lệ so sánh = G1 x 100 %
Go x (GL1/GLo)
Trong đó: GL1: Trị số chỉ tiêu cần liên hệ kỳ phân tích.
GLo: Trị số chỉ tiêu cần liên hệ kỳ gốc.
Phương pháp này chỉ ra hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp dưới mối liên hệ với các chỉ tiêu liên hệ khác. Sử dụng phương pháp nàynày giúp cho doanh nghiệp đánh giá được đúng hiệu quả kinh doanh của đơn vị mình, xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có mang lại hiệu quả không.
*Dạng kết hợp:
Mức tăng giảm tương đối = G1 – Go x (GL1/GLo)
Phương pháp này cho biết kết cấu, quan hệ, tốc độ phát triển của các chỉ tiêu.
Trong dấnh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thường kết hợp cả 2 phương pháp so sánh tuyệt đối và tương đối để dánh giá một cách toàn diện các chỉ tiêu so sánh.
II. Vai trò của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
1.Vai trò của công tác tạo nguồn hàng trong xuất khẩu .
1.1. Khái niệm về nguồn hàng cho xuất khẩu .
Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện cho xuất khẩu.
Như vậy nguồn hàng cho xuất khẩu không thể là nguồn hàng chung chung mà phải gắn với một địa danh cụ thể.
Mặt khác nguồn hàng cho xuất khẩu phải đảm bảo những yêu cầu chất lượng quốc tế. Do vậy không phải toàn bộ khối lượng hàng hoá của một đơn vị, một địa phương, một vùng đều là nguồn hàng cho xuất khẩu mà chỉ có phần hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu mới là nguồn hàng cho xuất khẩu.
1.2. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu .
Là toàn bộ những hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh cho tới nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu, có thể chia ra làm hai hoạt động chính:
Loại những hoạt động sản xuất và tiếp tục quá trình sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì đây là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất.
Loại những hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu, thường cho các tổ chức ngoại thương làm những chức năng trung gian cho xuất khẩu hàng hoá.
Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp sản xuất làm công tác xuất khẩu trực tiếp với nước ngoài, không qua các tổ chức trung gian. Do vậy trong công tác tạo nguồn hàng họ phải đảm nhận các khâu đã nêu ở trên.
Như vậy, để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể được gom hoặc có thể được ký kết hợp đồng mua với các chân hàng, đơn vị sản xuất. Tuỳ theo đặc điểm của từng ngành hàng, người ta có thể tự tổ chức sản xuất hoặc ký kết hợp đồng thu mua, ký kết hợp đồng với hướng dẫn kỹ thuật. Xu hướng giảm xuất khẩu sản phẩm thô, nhiều doanh nghiệp sản xuất hoặc ngoại thương tổ chức các bộ phận sơ chế hoặc chế biến nhằm tăng giá trị hàng xuất khẩu.
1.3. Cách thức thu mua tạo nguồn hàng:
Là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Thu mua tạo nguồn hàng là một loại hình hẹp hơn hoạt động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Đây là một hệ thống các nghiệp vụ mà tổ chức ngoại thương hoặc các tổ chức trung gian kinh doanh hàng xuất khẩu thực hiện bao gồm các khâu sau: Nghiên cưú thị trường trong và ngoài nước, xác định mặt hàng dự kiến kinh doanh, giao dịch ký kết hợp đồng thu mua hoặc mua gom các mặt hàng trôi nổi trên thị trường, xúc tiến khai thác nguồn hàng, thanh toán tiền, tiếp nhận, bảo quản, xuất kho giao hàng, ... Phần lớn các hoạt động này làm tăng chi phí lưu thông mà không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hoá. Do vậy các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đơn giản hoá các nghiệp vụ nhằm làm giảm chi phí lưu thông, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là biểu hiện bề ngoài của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoại thương với khách hàng, về trao đổi mua bán hàng xuất khẩu. Sau đây là một số hình thức tạo nguồn hàng:
1.3.1.Thu mua tạo nguồn hàng thông qua đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng.
Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, quy cách, cỡ loại, có ghi số lượng, thời gian giao hàng. Lập đơn đặt hàng phải đảm bảo chính xác về số lượng, thời gian giao hàng. Muốn lập được đơn đặt hàng phải xác định được nhu cầu của khách hàng, phải xác định được khả năng sản xuất của các đơn vị có nguồn hàng.
Đơn đặt hàng thường là căn cứ để ký kết họp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Do vậy các doanh nghiệp thường kết hợp giữa hợp đồng với đơn hàng. Đây là hình thức ưu việt, đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ cho cả đôi bên.
1.3.2.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu theo hợp đồng.
Đây là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên đạt được thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng và giá cả phương thức thanh toán, thời gian giao hàng,... thì các bên ký kết hợp đồng kinh tế. Đây là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên và được pháp luật bảo vệ.
Tuỳ theo đặc điểm của các quan hệ giao dịch và đối tượng giao dịch, mà người ta áp dụng các loại hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu:
- Hợp đồng mua đứt bán đoạn, là hợp đông người mua nhận hàng và trả tiền còn người bán giao hàng và nhận tiền.
- Hợp đồng gia công, là loại hợp đồng mà người gia công giao nguyên liệu, bán thành phẩm, nhận sản phẩm và trả phí gia công, còn người nhận gia công nhận nhiên liệu bán thành phẩm, gia công trả thành phẩm và nhận phí gia công.
- Hợp đồng đổi hàng: Đó là hai bên tiến hành trao đổi hàng hoá cho nhau.
1.3.3.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng.
Là hình thức mua bán “trao tay” sau khi người bán giao hàng nhận tiền và người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nghiệp vụ mua bán.
Đây là hình thức áp dụng với mua bán thu gom hàng trôi nổi trên thị trường, chủ yếu là những hàng nông sản chưa qua sơ chế. Hình thức này nhằm bổ sung cho các nguồn khác khi chưa có đủ số lượng hàng xuất khẩu. Nhưng chất lượng hàng thu mua theo hình thức này không đồng đều và không cao.
1.3.4. Thu mua tạo nguồn hàng thông qua liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất:
Liên doanh liên kết để sản xuất hàng xuất khẩu là hình thức doanh nghiệp ngoại thương đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất, sản xuất ra hàng hoá cho xuất khẩu. Vốn đầu tư có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua tín dụng cho vay. Trong đó, hình thức tín dụng cho vay là ưu việt hơn cả vì doanh nghiệp ngoại thương có cơ sở để hạch toán lỗ lãi đồng thời tăng thêm tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất.
Việc đầu tư tạo nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý. Các doanh nghiệp ngoại thương nếu đủ tiềm lực cần phát triển mở rộng hình thức liên doanh liên kết tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
1.3.5.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hệ thống đại lý để làm công tác thu mua hàng.
Tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà các doanh nghiệp ngoại thương chọn một trong các hình thức đại lý sau đây.
- Đại lý toàn quyền: Là đại lý có toàn quyền giải quyết các quan hệ mua bán.
- Đai lý đặc biệt: Là đại lý được giao một số quyền mua một lô hàng, một mặt hàng.
- Tổng đại lý: Là người được toàn quyền làm một phần việc nhất định của người uỷ thác.
- Đại lý thu uỷ: Là người được chỉ định để hành động thay thế cho người uỷ thác, với danh nghĩa và chi phí của người uỷ thác.
- Đại lý kinh tiêu: Là người đại lý hoạt động với danh nghĩa và chi phí của mình, thù lao cuả người nay là khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
- Đại lý hoa hồng: Là người được uỷ thác tiến hành hoạt động với danh nghĩa của mình với chi phí của người uỷ thác.
1.3.6.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua đổi hàng.
Đây là hình thức thu mua tạo nguồn hàng rất phổ biến rất phổ biến trong trường hợp các doanh nghiệp ngoại thương là người cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư kỹ thuật, máy móc, phân bón cho người sản xuất hàng xuất khẩu.
Hình thức này thường được áp dụng trong các trường hợp nguyên nhiên, vật tư máy móc, thiết bị... là những mặt hàng quý hiếm cung không đủ cầu trên thị trường hoặc những mặt hàng là phôi, nguyên vật liệu của hàng xuất khẩu.
Nếu là phôi, nguyên vật liệu, bán thành phẩm của hàng xuất khẩu thì hình thức này rất giống với hình thức gia công hàng xuất khẩu.
Hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng là một hình thức rất tốt khuyến khích các nhà sản xuất trong nước bán hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp ngoại thương.
Tóm lại: Các hình thức mua hàng và tạo nguồn hàng xuất khẩu rất phong phú và đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của các doanh nghiệp, mặt hàng, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường mà lựa chọn áp dụng một hoặc một số hình thức thu mua và tạo nguồn hàng xuất khẩu phù hợp.
1.4. Phân loại nguồn hàng:
1.4.1. Phân loại theo chế độ phân cấp quản lý:
* Nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước phân bổ.
Đây là nguồn hàng được nhà nước cam kết giao cho nước ngoài trên cơ sở các hiệp định hoặc các nghị định thư hàng năm. Sau khi ký kết các các nghị định thư hoặc các hiệp định với nước ngoài nhà nước phân bổ chỉ tiêu cho các đơn vị sản xuất, để các đơn vị này giao hàng hoá cho các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu thực hiện. Vì thế đối với các đơn vị ngoại thương nguồn hàng này khá đảm bảo về số lượng và chất lượng cũng như thời gian giao hàng.
Ngày nay, chuyển sang cơ chế thị trường thì nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giảm nhiều. Nhà nước chỉ giao những chỉ tiêu mang tính định hướng với mục đích tăng cường quản lý xuất nhập khẩu. Còn các doanh nghiệp tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thông qua nghiên cứu thị trường và ký kết các hợp đồng kinh tế.
* Nguồn hàng ngoài kế hoạch:
Nguồn hàng ngoài kế hoạch là nguồn hàng được trao đổi mua bán trên tất cả các thị trường trong nước. Các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng đã ký kết với nước ngoài mà tiến hành sản xuất thu mua, chế biến theo số lượng, chất lượng và thời gian giao hàng đã được thoả thuận với khách hàng nước ngoài trong hợp đồng kinh tế.
Cùng với việc giảm nguồn hàng trong chỉ tiêu kế hoạch nhà nước là việc tăng nguồn hàng ngoài kế hoạch càng lớn phong phú, đa dạng về chủng loại cũng như về giá trị. Việc giao dịch trao đổi nguồn hàng này phần lớn là mua bán trao tay hoặc hợp đồng ngắn hạn. Trong tương lai cần tăng tỷ trọng giao dịch thông qua hợp đồng dài hạn.
1.4.2. Phân loại nguồn hàng theo đơn vị giao hàng.
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể thu mua huy động từ:
- Các xí nghiệp công nghiệp của trung ương và địa phương.
- Các xí nghiệp nông, lâm nghiệp của trung ương và địa phương.
- Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
- Các hợp tác xã, hộ gia đình.
1.4.3. Phân loại nguồn hàng theo phạm vi doanh nghiệp được phân công khai thác:
- Nguồn hàng nằm trong phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp, đây là địa bàn chính mà doanh nghiệp khai thác hàng.
- Hàng năm ngoài khu vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với việc quy định khu vực của doanh nghiệp tuy ngăn chặn tình trạng “tranh mua”, hạn chế giá thu mua hàng xuất khẩu tăng cao song sẽ dẫn đến sự độc quyền của một số tổ chức ngoại thương địa phương qua việc khống chế giá để gây thiệt hại cho người sản xuất, về lâu dài sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất.
1.4.4.Phân loại nguồn hàng theo khối lượng hàng hoá thu mua được:
- Nguồn chính là nguồn có khối lượng thu mua lớn nhất của doanh nghiệp.
- Nguồn phụ là nguồn hàng chiếm một khối lượng nhỏ trong số hàng hoá xuất khẩu thu mua được của doanh nghiệp.
1.4.5.Phân loại nguồn hàng theo mối quan hệ kinh t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100583.doc