Hợp tác xã nông nghiệp là loại hình kinh tế đã tồn tại lâu dài và phát triển ở hâù hết các nước trên thế giới. Phong trào hợp tác xã (HTX) ở nước ta đã trải qua chặng đường hơn 50 năm xây dựng và phát triển, có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung cả nước có hơn tám vạn HTX các loại (chủ yếu ở miền Bắc ). Các HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã tạo ra một khối lượng sản phẩm chiếm tới 30 % giá trị công nghiệp toàn quốc và 50% giá trị công nghiệp địa phương. Trong lĩnh vực nông nghiệp phong trào kinh tế hợp tác và HTX đã góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo.
Tuy nhiên do điều kiện của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chế độ phân phối bình quân theo định lượng, định suất làm cho người lao động kém phấn khởi giảm nhiệt tình trong sản xuất. Việc tập thể hóa tư liệu sản xuất làm cho người nông dân không có điều kiện sản xuất độc lập, mất dần tính chủ động sáng tạo họ hoàn toàn phụ thuộc, dựa dẫm và ỷ lại vào HTX. Thu nhập từ kinh tế tập thể không đủ để đảm bảo cho cuộc sống gia đình, xã viên quay về với nghề phụ và dựa vào đất 5% của gia đình đây là nguồn thu chủ yếu của họ. Từ đó kinh tế HTX bi giảm sút, lòng tin của nông dân vào HTX mất dần. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách nhằm củng cố và phát triển HTX như Chỉ thị 100 của Ban Bí Thư, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và rất nhiều Nghị định và Chỉ thị khác. Đặc biệt Luật HTX được Quốc Hội nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 20\03\1996 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01\01 1997là cơ sở pháp lý cho các HTX nông nghiệp hoạt động bình đẳng với các loại hình kinh tế khác trước pháp luật. Kể từ đó các HTX từng bước chuyển đổi hoạt động theo Luật và bước đầu có kết quả. Hầu hết các HTX đều chuyển sang làm dịch vụ cho các hộ xã viên ở các khâu trước, trong và sau quá trình sản xuất.
Mặc dù vậy, các HTX dịch vụ nông nghiệp hiện nay do đang trong quá trình chuyển đổi nên trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ các HTX nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn như công tác quản lý vốn, hạch toán kế toán, phân phối từ đó cản trở việc việc phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp.
Hà Tây là một tỉnh nghèo, bình quân GDP trên đầu người thấp.Trong cơ cấu kinh tế chung thì nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, nông nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, sản xuất nông nghiệp chủ yếu là thủ công, năng suất chưa cao.
Trong những năm qua các HTX dịch vụ nông nghiệp với phương thức kinh doanh mới đã thu được những thành công nhất định. Đó là cung ứng vật tư cho sản xuất nông nghiệp, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. cho hộ xã viên. Như vậy, các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp đã đáp ứng được yêu cầu của hộ xã viên. Tuy nhiên không phải loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp nào cũng tồn tại và phát triển được, trong quá trình hoạt động đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc cần giải quyết. Là một sinh viên chuyên ngành kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, được thực tập tại sở Nông Nghiệp &PTNT Hà Tây, qua thời gian nghiên cứu em đã lựa chọn đề tài :
“ Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp của tỉnh Hà Tây” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
82 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các loại hình hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp của tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a
A. Lời nói đầu.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hợp tác xã nông nghiệp là loại hình kinh tế đã tồn tại lâu dài và phát triển ở hâù hết các nước trên thế giới. Phong trào hợp tác xã (HTX) ở nước ta đã trải qua chặng đường hơn 50 năm xây dựng và phát triển, có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung cả nước có hơn tám vạn HTX các loại (chủ yếu ở miền Bắc ). Các HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã tạo ra một khối lượng sản phẩm chiếm tới 30 % giá trị công nghiệp toàn quốc và 50% giá trị công nghiệp địa phương. Trong lĩnh vực nông nghiệp phong trào kinh tế hợp tác và HTX đã góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ở nông thôn, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo.
Tuy nhiên do điều kiện của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chế độ phân phối bình quân theo định lượng, định suất làm cho người lao động kém phấn khởi giảm nhiệt tình trong sản xuất. Việc tập thể hóa tư liệu sản xuất làm cho người nông dân không có điều kiện sản xuất độc lập, mất dần tính chủ động sáng tạo họ hoàn toàn phụ thuộc, dựa dẫm và ỷ lại vào HTX. Thu nhập từ kinh tế tập thể không đủ để đảm bảo cho cuộc sống gia đình, xã viên quay về với nghề phụ và dựa vào đất 5% của gia đình đây là nguồn thu chủ yếu của họ. Từ đó kinh tế HTX bi giảm sút, lòng tin của nông dân vào HTX mất dần. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách nhằm củng cố và phát triển HTX như Chỉ thị 100 của Ban Bí Thư, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị và rất nhiều Nghị định và Chỉ thị khác. Đặc biệt Luật HTX được Quốc Hội nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 20\03\1996 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01\01 1997là cơ sở pháp lý cho các HTX nông nghiệp hoạt động bình đẳng với các loại hình kinh tế khác trước pháp luật. Kể từ đó các HTX từng bước chuyển đổi hoạt động theo Luật và bước đầu có kết quả. Hầu hết các HTX đều chuyển sang làm dịch vụ cho các hộ xã viên ở các khâu trước, trong và sau quá trình sản xuất.
Mặc dù vậy, các HTX dịch vụ nông nghiệp hiện nay do đang trong quá trình chuyển đổi nên trong quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ các HTX nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn như công tác quản lý vốn, hạch toán kế toán, phân phối từ đó cản trở việc việc phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp.
Hà Tây là một tỉnh nghèo, bình quân GDP trên đầu người thấp.Trong cơ cấu kinh tế chung thì nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, nông nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, sản xuất nông nghiệp chủ yếu là thủ công, năng suất chưa cao.
Trong những năm qua các HTX dịch vụ nông nghiệp với phương thức kinh doanh mới đã thu được những thành công nhất định. Đó là cung ứng vật tư cho sản xuất nông nghiệp, chế biến, tiêu thụ sản phẩm... cho hộ xã viên. Như vậy, các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp đã đáp ứng được yêu cầu của hộ xã viên. Tuy nhiên không phải loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp nào cũng tồn tại và phát triển được, trong quá trình hoạt động đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc cần giải quyết. Là một sinh viên chuyên ngành kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, được thực tập tại sở Nông Nghiệp &PTNT Hà Tây, qua thời gian nghiên cứu em đã lựa chọn đề tài :
“ Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp của tỉnh Hà Tây” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2.Mục đích nghiên cứu.
-Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về HTX.
- Phân tích thực trạng, đánh giá các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
-Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các hình HTX dịch vụ nông nghiệp.
3.Phương pháp nghiên cứu.
-Phương pháp duy vật lịch sử, biện chứng.
-Phương pháp phân tích và tổng hợp.
-Phương pháp thống kê.
-Phương pháp so sánh.
4. Kết cấu đề tài : Bao gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở khoa học về kinh tế hợp tác và HTX trong nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp của tỉnh Hà Tây.
Chương 3 : Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp của tỉnh Hà Tây.
Chương i : Cơ sở khoa học về kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong nông nghiệp.
I. Khái niệm, vai trò và đặc trưng của HTX nông nghiệp.
1. Một số khái niệm.
a. Kinh tế hợp tác.
Hợp tác là phương thức tất yếu trong lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người. Nó bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động kinh tế nói chung và lao động sản xuất của con người nói riêng. Sự phát triển của hợp tác, do vậy gắn liền và bị quy định bởi sự tiến triển trong quá trình xã hội hoá hoạt động kinh tế của con người. Đến lượt mình sự phát triển các hình thức và tính chất thích hợp của hợp tác lại có tầm quan trọng to lớn đối với sự phát triển kinh tế.Thật vậy, hợp tác chính là tạo ra sức sản xuất xã hội của lao động. Các Mác trong khi phân tích bước quá độ chuyển kinh tế từ sản xuất nhỏ chậm phát triển sang đại công nghiệp đã chỉ ra vai trò lịch sử của hợp tác :”Tăng năng suất lao động nhờ vào sự phát triển sức hợp tác trong công trường thủ công là giai đoạn thứ nhất trong tiến trình hình thành nền đại công nghiệp. Nó thực sự tạo ra một cuộc cách mạng trong phương thức hoạt động kinh tế, khởi đầu trong thời đại kinh tế mới “.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, hợp tác rất quan trọng bởi lẽ nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, mang tính thời vụ rất cao khi hợp tác vơí nhau sẽ tạo ra sức mạnh, tận dụng được thời gian vật lực, tài lực. Vì vậy đã có nhiều mô hình tổ chức hợp tác như tổ vần công, đổi công sau đó đến các loại hình HTX bậc thấp và bậc cao.
Như vậy kinh tế hợp tác là tổ chức kinh tế được hình thành và phát triển trên cơ sở hợp tác giữa các thành viên tham gia. Bao gồm các tổ hợp tác đa dạng về hình thức, quy mô, lĩnh vực hoạt động đa dạng về trình độ từ thấp đến cao.
b. Hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã .
Ngày 20/03/1996 Quốc hội nước ta đã ban hành Luật HTX và theo Luật HTX thì HTX được định nghĩa như sau:
Hợp tác xã là hình thức tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu và lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn về các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ.
c. Hợp tác xã nông nghiệp.
Là một trong các hình thức cụ thể của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp là tổ chức kinh tế của những người nông dân có cùng nhu cầu và nguyện vọng tự nguyện liên kết lại để phối hợp với nhau phát triển kinh tế hoặc đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống của mỗi thành viên hoạt động theo các nguyên tắc luật pháp quy định, có tư cách pháp nhân.
2.Vai trò của HTX nông nghiệp.
Hợp tác xã nông nghiệp là hình thức kinh tế tập thể của nông dân vì vậy hoạt động của HTX nông nghiệp có tác động to lớn, tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông dân. Nhờ có hoạt động của HTX mà các yếu tố đầu vào và các khâu dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp được cung cấp kịp thời, đầy đủ và đảm bảo chất lượng, các khâu sản xuất tiếp theo được đảm bảo làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được nâng lên.
Thông qua hoạt động dịch vụ vai trò điều tiết sản xuất của HTX nông nghiệp được thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá. Chẳng hạn, dịch vụ làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật đòi hỏi sản xuất của hộ nông dân phải thực hiện thống nhất trên từng cánh đồng về chủng loại giống, thời vụ gieo trồng và chăm sóc.
HTX còn là nơi tiếp nhận những trợ giúp của Nhà nước tới hộ nông dân, vì vậy hoạt động của HTX có vai trò cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân một cách có hiệu quả.
Trong một số trường hợp khi có nhiều tổ chức tham gia hoạt động dịch vụ cho hộ nông dân hoạt động của HTX là đối trọng buộc các đối tượng phải phục vụ tốt hơn cho nông dân.
3. Đặc trưng của các HTX nông nghiệp.
- Mọi công dân có đủ điều kiện quy định để trở thành xã viên theo luật và điều lệ HTX nông nghiệp đều có thể viết đơn gia nhập vào HTX nông nghiệp và khi không có nhu cầu gia nhập HTX nông nghiệp có thể viết đơn gia khỏi HTX nông nghiệp.
-Các thành viên HTX nông nghiệp đều bình đẳng với nhau trong việc tham gia quản lý, kiểm tra giám sát và có quyền ngang nhau trong biểu quyết dù cổ phần đóng góp không giống nhau.
-Tự quản và tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
-Mục đích thành lập HTX nông nghiệp chủ yếu là phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân. Vì vậy việc phân phối lãi của HTX nông nghiệp theo nguyên tắc : Lãi chia cho vốn góp cổ phần có giới hạn còn trích vào các quỹ của HTX và có thể chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
II. Các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp.
1. Các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp.
Dịch vụ nông nghiệp được hiểu là những điều kiện, những yếu tố cần thiết hoặc cần có cho một quá trình sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm nào đó trong nông nghiệp (ví dụ cung cấp giống cây trồng, con gia súc, làm đất, tưới, tiêu, bảo vệ đồng điền ) mà người sản xuất không có sẵn, không thể làm được hoặc tạo ra được, hoặc nếu tự làm cũng không có hiệu quả cho nên họ phải tiếp nhận các điều kiện, các yếu tố từ bên ngoài bằng các cách thức khác nhau như mua bán, trao đổi, cho thuê.
Hoạt động dịch vụ nông nghiệp là hoạt động nhằm cung ứng, trao đổi, tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ giữa người sản xuất nông nghiệp và người cung cấp dịch vụ theo một phương thức nhất định nào đó.
Trong nông nghiệp, nông thôn các HTX nông nghiệp thường có các hình thức dịch vụ sau:
HTX nông nghiệp làm dịch vụ : Về hình thức đây là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp tách ra làm chức năng dịch vụ cho hộ xã viên. Bao gồm :
+ Dịch vụ các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp ( các HTX cung ứng vật tư, giống ).
+ Dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp (HTX làm đất, tưới, tiêu nước, BVTV).
+ Dịch vụ tiếp theo của quá trình sản xuất nông nghiệp (HTX chế biến, tiêu thụ sản phẩm ).
Về thực chất các HTX trên được tổ chức với mục đích phục vụ cho khâu sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân lầ chủ yếu. Vì vậy, sự ra đời của các HTX dịch vụ hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu khách quan của sản xuất nông nghiệp trong đó đặc điểm sản xuất của ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông dân chi phối một cách trực tiếp nhất.
Trong nông nghiệp do đặc điểm của ngành, một mặt nảy sinh các yêu cầu khách quan đòi hỏi hình thành và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác và HTX. Mặt khác, nó đặt ra các giớt hạn cho việc lựa chọn mô hình của kinh tế hợp tác, trong đó mô hình các HTX dịch vụ nông nghiệp là hình thức thích hợp và phổ biến. HTX dịch vụ gồm :
Các HTX dịch vụ chuyên khâu : Là HTX chỉ thực hiện một chức năng dịch vụ, một khâu cho sản xuất nông nghiệp như: HTX thuỷ nông, HTX dịch vụ điện, HTX cung ứng vật tư
HTX dịch vụ tổng hợp : Là các HTX thực hiện các chức năng dịch vụ nhiều khâu cho sản xuất nông nghiệp đôi khi cả đời sống.
HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ : Các HTX loại này thường dưới dạng các HTX chuyên môn hoá theo sản phẩm. Đó là các HTX gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ trong đó trực tiếp sản xuất là các hộ nông dân. HTX hợp đồng bao tiêu sản phẩm chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ví dụ các HTX sản xuất rau, sản xuất sữa.
Trong thời kỳ quản lý kinh tế tập trung, kế hoạch hoá, việc cung ứng dịch vụ cho các HTX được thực hiện theo kế hoạch, chỉ tiêu, nhìn chung các hoạt động cung ứng dịch vụ khá đơn giản và gần như không có sự cạnh tranh.Chuyển sang nền kinh tế thị trường, sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế tự chủ và vai trò của kinh tế tập thể, kinh tế HTX ngày càng giảm sút thì hoạt động cung ứng dịch vụ cho hộ nông dân ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng và mang tính cạnh tranh khốc liệt giữa các thành phần kinh tế khác nhau.
Sau đây là các tổ chức làm dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp (Bảng 1).
Bảng 1: Các tổ chức làm dịch vụ nông nghiệp.
Các tổ chức Nhà nước
Các tổ chức của nông dân
Các tổ chức tư nhân
Ngân hàng nông nghiệp
Tổ hợp tác, HTX
Tư nhân
Các doanh nghiệp kinh doanhvật tư, nông sản.
Các hiệp hội của nông dân như hội nông dân, hội làm vườn, hội cựu chiến binh
Các công ty, tổ chức kinh doanh
Các doanh nghiệp quốc doanh nông nghiệp
Các cơ quan quản lý Nhà nước về Nông nghiệp (Sở NN, Phòng NN )
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp.
a.Sự phát triển của kinh tế hộ nông dân.
Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ. Trong tiến trình chuyển đổi và phát triển dưới sự hỗ trợ của Nhà nứơc các hộ nông dân có quyền và phải tự quyết định việc lựa chọn những giải pháp cho sự phát triển và chuyển đổi kinh tế của mình. Việc hợp tác như thế nào và việc họ có tham gia HTX hay không là việc của họ.
Trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay, kinh tế hộ nông dân đang có sự thay đổi sâu sắc. Trong đó, có sự chuyển đổi quan trọng nhất để kinh tế hộ nông dân tham gia HTX đó là sự chuyển đổi từ hộ nông dân tự cung, tự cấp thành hộ nông dân sản xuất hàng hoá và chính quá trình sản xuất hàng hoá mới có nhu cầu về dịch vụ đầu vào, đầu ra trong sản xuất nông nghiệp. Như vậy, có thể thấy sự phát triển của kinh tế hộ nông dân có vai trò quyết định đến sự phát triển của các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp. Giữa chúng có mối quan hệ biên chứng với nhau. Khi kinh tế hộ nông dân phát triển thành hộ sản xuất hàng hoá, tức là năng lực sản xuất của hộ được mở rộng, khối lượng vật tư, kỹ thuật và khối lượng sản phẩm hàng hoá tăng lên, các nhu cầu về hợp tác cũng tăng lên, trong khi có một số khâu dịch vụ mà bản thân từng hộ không thể làm được hoặc làm không có hiệu quả. Khi đó, các HTX dịch vụ ra đời nhằm đáp ứng các nhu cầu của hộ nông dân là tất yếu khách quan. Kinh tế hộ dân càng phát triển thì các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp càng tăng lên.
Hiện nay, kinh tế hộ nông dân nước ta còn ở trình độ thấp, phát triển không đồng đều giữa các vùng, vì vậy, nó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp, bởi vì nó chi phối quá trình sản xuất kinh doanh của các HTX dịch vụ nông nghiệp. Do đó, cần có những giải pháp để thúc đẩy phát triển kinh tế hộ nông dân.
b. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Nước ta từ khi có sự chuyển đổi cơ chế, từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước thì mỗi đơn vị sản xuất (trong đó có hộ nông dân và HTX...) đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường tức là sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của thị trường, đòi hỏi của thị trường và giữa chúng phải cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển. Khi nền nông nghiệp chuyển sang sản xuất hàng hoá, các hộ nông dân sản xuất không chỉ nhằm mục đích tự cung tự cấp nữa mà sẽ chuyển sang sản xuất hàng hoá. Nó được thể hiện thông qua sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp lúc đó, sẽ nảy sinh các dịch vụ đầu vào, đầu ra để đáp ứng nhu cầu sản xuất của hộ nông dân.
Kinh tế thị trường càng phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ nông dân chuyển sang sản xuất hàng hoá. Và như vậy, nhu cầu về tham gia các HTX dịch vụ nông nghiệp của hộ nông dân sẽ tăng lên đặc biệt là các HTX tiêu thu sản phẩm.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nước ta còn chưa phát triển, đặc biệt là thị trường nông thôn vẫn còn ở trình độ thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ nông dân vẫn còn mang tính tự cấp, sản xuất nhỏ và chưa thực sự đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường do đó đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế hộ nông dân. Từ đó, nó hạn chế sự phát triển của các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp.
Như vậy, sự phát triển của nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp .Bởi vì, sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ tạo động lực để phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng với nhiều loại sản phẩm hàng hoá khác nhau trong đó có sự đóng góp của kinh tế hộ nông dân và HTX.
c. Các chính sách vĩ mô của Nhà nước và sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương.
Bên cạnh sự ra đời của luật HTX ngày 20/03/ 1996 thì sự tác động của Nhà nước đến sự phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp bằng các chính sách vĩ mô có rất quan trọng : Bao gồm :
-Chính sách nhiều thành phần kinh tế :Trong nông nghiệp, nông thôn hiện nay có nhiều thành phần kinh tế tham gia như kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác, kinh tế hộ nông dân, kinh tế trang trại. Điều đó nói lên sự phát triển của các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp trong mối quan hệ chặt chẽ với các thành phần kinh tế khác. Việc quy định vị trí vai trò của các thành phần kinh tế là quan trọng đảm bảo tính ổn định của sản xuất và cạnh tranh lành mạnh.
-Chính sách đầu tư và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Đầu tư trước hết vào việc xây dựng và cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn như hệ thống đường giao thông, điện, thuỷ lợi, đưa giống mới vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi .Khi cơ sở hạ tầng phát triển sẽ thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển và do đó các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp cũng phát triển theo.
-Chính sách giá cả, hỗ trợ sản xuất.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường việc các HTX dịch vụ nông nghiệp phải đáp ứng hai mục tiêu là hỗ trợ cho các hộ xã viên đồng thời phải có lãi để duy trì hoạt động của HTX là rất khó khăn. Chính vì vậy có những chính sách ưu đãi đối với các HTX là rất quan trọng đặc biệt là các chính sách về đào tạo cán bộ quản lý HTX.
Ngoài những chính sách vĩ mô của Nhà nước thì sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng chính quyền điạ phương cũng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển các loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp.
Chính quyền nhân dân ở đây đó là UBND các cấp đặc biệt là cấp xã phải thực hiện quản lý Nhà nước của mình đối với các HTX, tạo môi trường để thúc đẩy các HTX dịch vụ phát triển. Trong những năm qua, nhiều UBND xã đã làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình đối với HTX, thực sự là “bà đỡ”cho các HTX dịch vụ phát triển. Nhưng cũng có những nơi chính quyền địa phương còn buông lỏng quản lý, bỏ mặc các HTX hoạt dộng, hoặc can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ liên quan đến hoạt kinh doanh dịch vụ của HTX. Do đó các UBND xã trên cần chấn chỉnh lại, thực hiên đúng chức năng nhiệm vụ của mình để tao điều kiện cho các HTX dịch vụ nông nghiệp tại nơi địa phương quản lý phát triển.
III. Khái quát quá trình phát triển HTX nông nghiệp nước ta.
1. Sơ lược quá trình phát triển HTX nông nghiệp.
ở nước ta, sau cải cách ruộng đất năm 1954 chúng ta đã bắt tay ngay vào xây dựng HTX nông nghiệp. Đến cuối năm 1960 miền Bắc đã căn bản hoàn thành HTX bậc thấp và cuối năm 1969 hầu hết các HTX chuyển lên bậc cao. Đặc biệt sau năm 1975 đất nước thống nhất thì các HTX quy mô lớn được xây dựng một cách nhanh chóng.
Ngày 13/1/1981chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung Ương Đảng được ban hành với nội dung “ Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động “ trongHTX nông nghiệp. .Mục đích của việc mở rộng khoán sản phẩm là bảo đảm phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế ; củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất XHCN ở nông thôn không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên, tăng tích luỹ của HTX, làm tròn nghĩa vụ và không ngừng tăng khối lượng nông sản cung ứng cho Nhà nước.
Đối với các HTX ở miền núi, các HTX và tổ đội sản xuất ở miền Nam thì cần làm thử rút kinh nghiệm trước khi mở rộng.
Thành công của “khoán sản phẩm “ giai đoạn đầu 1981- 1985 có ý nghĩa rất quan trọng, song đã bộc lộ dần những hạn chế như cơ chế quản lý cứng nhắc, tệ quan liêu mệnh lệnh vẫn tiếp tục phát triển, tình trạng nợ đọng sản phẩm kéo dài, người lao động thiếu yên tâm phấn khởi sản xuất .Thực trạng trên một lần nữa khẳng định phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, đổi mới chính sách của Nhà nước đối với HTX và nông dân.
Trong bối cảnh đó Nghị quyết 10 của Bộ chính trị ra đời. Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (khoá VI ) ngày 5/4/ 1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, được coi là mốc quan trọng mở đàu thời kỳ mới tương đối toàn diện.
Nghị quyết 10 và một số chủ trương tiếp sau có nhiều nội dung, trong đó việc xoá bỏ công điểm, thực hiện khoán gọn theo đơn giá thanh toán gọn, giao đất đai, tư liệu sản xuất chủ yếu cho người lao động quản lý và sử dụng trong HTX nông nghiệp là một trong các nội dung cơ bản. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất đã tạo ra bước chuyển đổi mới trong các HTX nông nghiệp.
Tính đến đầu năm 1988, cả nước có 17022 HTX và 36352 tập đoàn sản xuất nông nghiệp thực chất là các HTX quy mô nhỏ ở các tỉnh Nam Bộ cũ, đã thu hút 69% số hộ nông dân vào làm ăn tập thể. Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (4/1988), Nghị quyết Trung ương V khoá 7(1993), hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ, được nhận ruộng đất ổn định lâu dài. Các tư liệu sản xuất tập thể quản lý sử dụng không hiệu quả được bán lại cho hộ xã viên. Các cơ sở vật chất được giao cho UBND xã quản lý để phục vụ cho nhu cầu chung của xã. HTX chỉ quản lý những cơ sở vật chất có liên quan trực tiếp đến sản xuất và đời sống chung của xã viên. HTX từ chỗ chỉ đạo, điều hành trực tiếp sản xuất chuỷên sang hướng dẫn sản xuất, làm dịch vụ cho hộ xã viên, hộ xã viên tự bố trí sản xuất kinh doanh, tự do mua bán ký kết hợp đồng với các tổ chức kinh tế khác. Xã viên có nghĩa vụ nộp thuế và thanh toán các chi phí dịch vụ cho HTX.
Việc chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới đã làm cho đa số các HTX nông nghiệp lúng túng không thích ứng được với phương thức làm việc mới dẫn đến một số HTX tan rã nhanh chóng. Từ năm 1988-1994 đã giải thể 2956 HTX chiếm 17,4% tổng số HTX nông nghiệp.
Về chất lượng HTX, theo báo cáo của Bộ Nông Nghiệp &PTNT và các tỉnh trong 16243 HTX được phân chia làm 3 loại:
* Loại HTX đổi mới có kết quả.
Số HTX này theo báo cáo của các tỉnh có 2651 HTX, chiếm 16,3% tổng số HTX. Song theo điều tra của Bộ Nông Nghiệp &PTNT thì số HTX làm ăn có hiệu quả chỉ đạt khoảng 10% với những kết quả đạt được :
HTX chuyển sang kinh doanh dịch vụ và có lãi như : Dịch vụ giống, phân bón, BVTV, thú y, làm đất, tiêu thụ sản phẩm, chế biến .Tuy nhiên số khâu dịch vụ và mức độ đáp ứng dịch vụ của HTX cho hộ xã viên có khác nhau.
Thông qua dịch vụ, các HTX tổ chức thêm ngành nghề mới, khôi phục nghề truyền thống để tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho hộ xã viên.
Thông qua dịch vụ các HTX đã làm tốt việc hướng dẫn xã viên tiếp cận thị trường, tổ chức sản xuất phù hợp với yêu cầu thị trường, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho các hộ.
HTX cùng với chính quyền địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng, phúc lợi...
Đã xây dựng được quy chế quản lý tài chính. Phàn lớn các HTX loại này đều thực hiện khoán vốn cho các tổ dịch vụ, do đó vốn được đưa vào hoạt động và phát triển.
Thu nhập và đời sống phần đông xã viên được cải thiện.
Trình độ dân trí và năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ đã từng bước được nâng cao. Tuy vậy, số HTX khá còn một số tồn tại sau :
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và vốn của HTX tuy có lớn hơn các HTX khác nhưng vẫn chưa đủ khả năng đảm bảo được các khâu dịch vụ mà xã viên yêu cầu. Kết quả điều tra 68 HTX nông nghiệp tiêu biểu ở các vùng năm 1995 của Bộ Nông Nghiệp & PTNT cho biết : Mức độ đáp ứng dịch vụ của HTX cho xã viên cao nhất là thuỷ lợi đạt 88,4% nhu cầu của hộ xã viên, tiếp đến là thú y 72%, BVTV cung ứng 44,8%, phân đạm 25,5%.
Số lượng xã viên quá lớn làm cho việc thực hiện dân chủ bị hạn chế.
Đời sống xã viên tuy được cải thiện nhưng chậm và chưa tăng cường vai trò tự chủ của kinh tế hộ.
Trình độ, năng lực, phẩm chất cán bộ trong HTX không đều, chưa chuẩn bị được đội ngũ cán bộ kế cận.
Tình trạng nợ các cơ quan Nhà nước và xã viên nợ HTX giải quyết còn chậm, chưa dứt điểm.
* Loại HTX còn hoạt động một vài khâu, vài việc nhưng hiệu quả thấp :
Loại này có 6557 HTX chiếm 40% so với tổng số HTX hiện có :
Khâu dịch vụ chủ yếu của HTX là thuỷ nông, song càng hoạt động thì HTX càng bộc lộ sự lúng túng, yếu kém. Cơ sở vật chất ngày càng bất cập với yêu cầu sản xuất.
Vốn của HTX bị chiếm dụng, các khoản nợ của HTX với ngân hàng ngày càng tăng và khó có khả năng thanh toán.
Bộ máy quản lý thụ động, không nhạy bến với thị trường.
Kinh tế hộ xã viên chưa đủ điều kiện thực sự trở thành các đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất nhỏ là chủ yếu.
Như vậy, sự chuyển đổi mang tính chất nửa vời, chưa rõ nét còn chịu ảnh hưởng của HTX kiểu cũ.
*Loại HTX chỉ tồn tại trên hình thức.
Tuy hàng năm có một số HTX tự giải thể nhưng lại có một số HTX trung bình trở thành tồn tại trên hình thức nên tỷ lệ HTX loại này vẫn tăng.
Loại HTX vẫn còn Ban quản trị HTX và chủ nhiệm HTX nhưng không hoạt động kinh tế (một số nơi như Thái Bình, Nam Hà vẫn còn thu 1-2% sản lượng để nuôi bộ máy này ). Đại hội xã viên không được họp để bầu ra Ban quản trị mới, mặc dù đã hết nhiệm kỳ. Tài sản vốn quỹ của HTX không còn, có nơi vốn của HTX bị xã viên chiếm dụng hết.
Biểu 2 : Đánh giá thực trạng các HTX nông nghiệp năm 1994.
Chỉ tiêu
Tổng số
Đổi mới có hiệu quả
Đổi mới bước đầu
Còn hình thức
SL
%
SL
%
SL
%
Miền nú
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100839.doc