Đất nước ta đang từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đưa đất nước phát triển toàn diện. Muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải có nhiều nguyên, nhiên, vật liệu, năng lượng đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu để đổi lấy những công nghệ tiên tiến của thế giới, chúng ta phải mở mang xây dựng các công trình giao thông đến khắp các vùng miền, đảm bảo cho sự lưu thông và đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành kinh tế trên địa bàn cả nước và giao lưu với các nền kinh tế thế giới. Như vậy, cần đến nhiều vật liệu nổ công nghiệp (VLNCN) để phát triển các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác khoáng sản, xây dựng các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, giao thông v.v Tuy nhiên, phát triển ngành VLNCN cũng cần phải gắn với đảm bảo an ninh, an toàn xã hội. Vì vậy, VLNCN được coi là một loại vật tư đặc biệt, kinh doanh có cạnh tranh nhưng do Nhà nước thống nhất quản lý với những định hướng chiến lược lâu dài, có phân công, phân cấp cụ thể. Là một công ty sản xuất VLNCN thì lượng tài sản để duy trì sản xuất kinh doanh là một vấn đề được Công ty công nghiệp hoá chất mỏ đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, trong quá trình thực tập ở công ty em đã chọn vấn đề “nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của công ty công nghiệp hoá chất mỏ - TKV” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của công ty công nghiệp hoá chất mỏ
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của công ty công nghiệp hóa chất mỏ
80 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của công ty công nghiệp hoá chất mỏ - TKV, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đưa đất nước phát triển toàn diện. Muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải có nhiều nguyên, nhiên, vật liệu, năng lượng đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu để đổi lấy những công nghệ tiên tiến của thế giới, chúng ta phải mở mang xây dựng các công trình giao thông đến khắp các vùng miền, đảm bảo cho sự lưu thông và đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành kinh tế trên địa bàn cả nước và giao lưu với các nền kinh tế thế giới. Như vậy, cần đến nhiều vật liệu nổ công nghiệp (VLNCN) để phát triển các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác khoáng sản, xây dựng các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, giao thông v.v…Tuy nhiên, phát triển ngành VLNCN cũng cần phải gắn với đảm bảo an ninh, an toàn xã hội. Vì vậy, VLNCN được coi là một loại vật tư đặc biệt, kinh doanh có cạnh tranh nhưng do Nhà nước thống nhất quản lý với những định hướng chiến lược lâu dài, có phân công, phân cấp cụ thể. Là một công ty sản xuất VLNCN thì lượng tài sản để duy trì sản xuất kinh doanh là một vấn đề được Công ty công nghiệp hoá chất mỏ đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, trong quá trình thực tập ở công ty em đã chọn vấn đề “nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của công ty công nghiệp hoá chất mỏ - TKV” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của công ty công nghiệp hoá chất mỏ
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của công ty công nghiệp hóa chất mỏ
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
Tài sản lưu động của doanh nghiệp
Khái quát về doanh nghiệp
Trong một nền kinh tế, không thể không nhắc đến các doanh nghiệp. Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một cách tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân.
Theo Luật doanh nghiệp ở Việt nam: doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh - tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh bao gồm:
- Kinh doanh cá thể;
- Kinh doanh góp vốn;
- Công ty
Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: các cổ đông (chủ sở hữu), hội đồng quản trị và các nhà quản lí. Cổ đông kiểm soát toàn bộ phương huớng, chính sách của công ty. Cổ đông bầu ra Hội đồng quản trị, sau đó hội đồng quản trị lựa chọn ban quản lí. Các nhà quản lí quản lí hoạt dộng của công ty theo cách thức mang lại lợi ích cao nhất cho cổ đông.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo luật doanh nghiệp năm 2005 được quy định là: doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điền lệ của công ty.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp
Khái niệm tài sản lưu động của doanh nghiệp
Chúng ta biết rằng tài sản của một doanh nghiệp được chia thành 2 bộ phận: Tài sản cố định và tài sản lưu động. Nếu như tài sản cố định, hiểu theo nghĩa rộng là những yếu tố của tư liệu lao động được sử dụng trong một thời gian luân chuyển tương đối dài và có giá trị đơn vị tương đối lớn thì tài sản lưu động, ngược lại, là những yếu tố của tư liệu lao động được sử dụng trong một thời gian luân chuyển ngắn. Các tài sản lưu động phần lớn đóng vai trò là đối tượng lao động, tức là các vật bị tác động trong quá trình chế biến, bởi lao động của con người hay máy móc. Do đó tài sản lưu động phản ánh các dạng nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, phụ liệu…Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tái sản lưu động của doanh nghiệp được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng. Quy mô tài sản lưu động của một doanh nghiệp tăng giảm theo chu kì kinh doanh và xu hướng mùa vụ. Vào giai đoạn tăng trưởng của chu kì kinh doanh, doanh nghiệp thường đạt mức tài sản lưu động tối đa. Quản lí sử dụng hợp lí tài sản lưu động có ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân loại tài sản lưu động của doanh nghiệp
Tài sản lưu động có thể được phân loại khác nhau tuỳ theo mục đích và tiêu chí áp dụng. Có thể phân loại theo khả năng chuyển đổi và đặc diểm kinh tế của từng nhóm như sau:
Tài sản bằng tiền (Cash)
Tất cả tiền mặt tại quỹ, tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang chuyển (kể cả nội tệ và ngoại tệ) đều thuộc nhóm “tài sản bằng tiền mặt”. Lưu ý rằng, tiền ở đây không phải chỉ là tiền mặt, trong lĩnh vực tài chính - kế toán, tài sản bằng tiền của một doanh nghiệp bao gồm:
Tiền mặt
Séc các loại
Tiền gửi ngân hàng
Tiền trong thanh toán
Vàng bạc, đá quý và kim khí quý
Đây là nhóm tài sản đặc biệt, được sử dụng vào mục đích dự trữ. Trong một số ngành như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm… giá trị của loại tàí sản này rất lớn.
Các tài sản tương đương với tiền
Nhóm này gồm các tài sản chính có khả năng chuyển đổi cao (dễ bán, dễ chuyển đổi thành tiền khi cần thiết). Loại tài sản này bao gồm: chứng khoán ngắn hạn dễ bán chứ không phải tất cả các loại chứng khoán: các giấy tờ thương mại ngắn hạn được bảo đảm hoặc có độ an toàn cao (hối phiếu ngân hàng, kì phiếu thương mại, bộ chứng từ hoàn chỉnh)…
Chi phí trả trước
Chi phí trả trước bao gồm các khoản tiền mà công ty đã trả trước cho người bán, nhà cung cấp hoặc cho các đối tượng khác. Một số khoản trả trước có thể có mức độ rủi ro cao vì phụ thuộc vào một số yếu tố khó dự đoán trước.
Các khoản phải thu
Các khoản phải thu là một loại tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp, đặc biệt là công ty kinh doanh thương mại, mua bán hàng hoá. Hoạt động mua bán chịu giữa các bên, phát sinh các khoản tín dụng thương mại. Thực ra các khoản phải thu gồm nhỉều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ mua bán, quan hệ hợp đồng. Theo mức độ rủi ro thì các khoản phải thu có thể chia thành các loại sau:
Độ tin cậy cao (loại A)
Độ tin cậy trùng bình (B)
Độ tin cậy thấp (C)
Không thể thu hồi được (D)
Khi phân tích tín dụng hoặc đánh giá khả năng thanh toán của một công ty, loại A được tính 100% trị giá ghi trên tài khoản, loại B là 90% - 95%, loại C là 70% - 80% còn loại D không đựơc tính. Loại D coi như không có hy vọng thu hồi, sau một thời gian xác định không đòi đựơc thì có thể được xoá khỏi tài khoản phải thu.
Tiền đặt cọc
Trong nhiều trường hợp các bên liên quan đến hợp đồng đặt cọc một số tiền nhất định. Các điều khoản về tiền đặt cọc thường được quy định theo 2 cách:
Số tiền đặt cọc tính theo tỷ lệ phần trăm trị giá hợp đồng hoặc trị giá tài sản được mua bán.
Số tiền đặt cọc được ấn định bằng một số tiền cụ thể, hoặc một giá trị tối thiểu cho hợp đồng.
Trong các trường hợp bên đặt cọc thực hiện đúng hợp đồng thì họ có quyền lấy lại tiền đặt cọc. Nếu như có sự vi phạm hoặc huỷ bỏ hợp đồng, hoặc không tiếp tục tham gia (ví dụ như đấu thầu) thì họ có thể bị mất tiền đặt cọc. Nhưng vậy, tiền đặt cọc là một khoản mục tài sản không chắc chắn, độ tin cậy có thể giao động lớn. Do tính chất như vậy nên tiền đặt cọc không được các ngân hàng tính đến khi xác định khả năng thanh toán bằng tiền của doanh nghiệp.
Hàng hoá vật tư
Hàng hoá vật tư hay còn gọi là hàng tồn kho, không mang nghĩa hẹp là hàng hoá bị ứ đọng, không bán đựơc mà thực chất bao hàm nghĩa toàn bộ các hàng hoá vật liệu, nguyên liệu đang tồn tại ở các kho, quầy hàng hoặc trong xưởng. Trên thực tế, hàng tồn kho có thể bao gồm hàng trăm chủng loại khác nhau. Tuy nhiên, có thể gộp lại thành những nhóm sau:
Nguyên liệu, vật liệu chính
Vật liệu phụ, vật liệu bổ trợ
Nhiên liệu và các loại dầu mỡ
Thành phẩm
Sản phẩm dở dang và bán thành phẩm
Công cụ nhỏ, các dụng cụ lao động thuộc tài sản lưu động
Phụ tùng thay thế
Sản phẩm hỏng và các loại thay thế
Các chi phí chờ phân bổ
Một số khoản chi phí đã phát sinh, nhưng có thể chưa được phân bổ vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Những khoản này sẽ được đưa vào giá thành trong khoản thời gian thích hợp.
Vai trò của tài sản lưu động của doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần phải có vốn. Tài sản lưu động là một thành phần quan trọng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong khâu dự trữ và sản xuất, tài sản lưu động đảm bảo cho sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, đảm bảo quy trình công nghệ, công đoạn sản xuất. Trong lưu thông, tài sản lưu động đảm bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ được nhịp nhàng và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân chuyển tài sản lưu động lớn khiến cho công việc quản lý và sử dụng tài sản lưu động luôn luôn diễn ra thường xuyên, liên tục. Với vai trò to lớn như vậy, việc tăng tốc độ luân chuyển tài sản lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp là một yêu cầu tất yếu.
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Hiệu quả là một khái niệm luôn được đề cập trong nền kinh tế thị trường. Ví dụ các doanh nghiệp luôn hướng tới hiệu quả kinh tế còn chính phủ nỗ lực đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.
Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là một khái niệm phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động nào đó với những mục đích xác định do con người đặt ra. Như vậy, có thể hiểu hiệu quả sử dụng là một phạm trù kinh tế đánh giá trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Do đó, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là một phạm trù kinh tế đánh giá trình độ sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với mức tài sản lưu động hợp lý.
Tài sản lưu động của doanh nghiệp được sử dụng cho các quá trình dự trữ, sản xuất và lưu thông. Quá trình vận động của tài sản lưu động bắt đầu từ việc dùng tiền tệ mua sắm vật tư dự trữ cho sản xuất, tiến hành sản xuất và khi sản xuất xong doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ để thu về một số vốn dưới hình thái tiền tệ ban đầu với giá trị tăng thêm. Mỗi lần vận động như vậy được gọi là một vòng luân chuyển của tài sản lưu động. Doanh nghiệp sử dụng tài sản đó càng có hiệu quả bao nhiêu thì càng có thể sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhiều bấy nhiêu. Vì lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý, hiệu quả hơn từng đồng tài sản lưu động, làm cho mỗi đồng tài sản lưu động hàng năm có thể mua sắm nguyên, nhiên vật liệu nhiều hơn, sản xuất ra sản phẩm và tiêu thụ được nhiều hơn. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp nâng cao tốc độ luân chuyển tài sản lưu động (số vòng quay tài sản lưu động trong một năm).
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động chúng ta có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau nhưng tốc độ luân chuyển tài sản lưu động là chỉ tiêu cơ bản và tổng hợp nhất phản ánh trình độ sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Tốc độ luân chuyển tài sản lưu động
Trong tài chính, tốc độ luân chuyển tài sản lưu động là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển tài sản lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt: mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp có hợp lý hay không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không, các khoản phí tổn trong quá trình sản xuất kinh doanh là cao hay thấp. Thông qua phân tích chỉ tiêu tốc độ luân chuẩn tài sản lưu động có thể giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh được tốc độ luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.
(1) Vòng quay tài sản lưu động trong kỳ
Vòng quay TSLĐ
=
Tổng mức luân chuyển TSLĐ trong kỳ
TSLĐBQkỳ
Trong đó:
- Trong năm tổng mức luân chuyển tài sản lưu động được xác định bằng doanh thu thuần của doanh nghiệp.
- TSLĐBQkỳ : Tài sản lưu động bình quân trong kỳ được tính như sau:
TSLĐBQkỳ
=
TSLĐđầu kỳ + TSLĐcuối kỳ
2
- Tài sản lưu động bình quân năm
TSLĐBQnăm =
TSLĐđầu tháng 1/2+ TSLĐđầu tháng 2+…+TSLĐđầu tháng 12 +TSLĐcuối tháng 12/2
12
Để đơn giản trong tính toán ta sử dụng công thức tính TSLĐBQ gần đúng:
TSLĐBQnăm
=
TSLĐđầu năm +TSLĐcuối năm
2
Ta có:
Vòng quay TSLĐnăm
=
Doanh thu thuần
TSLĐBQ năm
Đây là chỉ tiêu nói lên số lần quay (vòng quay) của tài sản lưu động trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trên mối quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất (tổng doanh thu thuần) và số tài sản lưu động bình quân bỏ ra trong kỳ. Số vòng quay tài sản lưu động trong kỳ càng cao thì càng tốt.
(2)Thời gian luân chuyển tài sản lưu động
Thời gian luân chuyển TSLĐ =
TSLĐBQkỳ x Thời gian của kỳ phân tích
Tổng mức luân chuyển TSLĐ trong kỳ
hay
Thời gian luân chuyển TSLĐ =
Thời gian của kỳ phân tích
Vòng quay TSLĐ trong kỳ
Trong đó:
Thời gian của kỳ phân tích được ước tính một năm là 360 ngày, một quý là 90 ngày và một tháng là 30 ngày.
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển của tài sản lưu động hay số ngày bình quân cần thiết để tài sản lưu động thực hiện một vòng quay trong kỳ. Ngược với chỉ tiêu số vòng quay tài sản lưu động trong kỳ, thời gian luân chuyển tài sản lưu động càng ngắn chứng tỏ tài sản lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.
(3) Hệ số đảm nhiệm tài sản lưu động
Hệ số đảm nhiệm TSLĐ =
TSLĐBQkỳ
Doanh thu thuần
Hệ số này cho biết để thu được mỗi đơn vị doanh thu, doanh nghiệp phải sử dụng bao nhiêu đơn vị TSLĐ. Hệ số này càng thấp, thì hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp càng cao. Thông qua chỉ tiêu này, các nhà quản trị kinh doanh xây dựng kế hoạch về đầu tư TSLĐ một cách hợp lí góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hệ số sinh lời tài sản lưu động
Hệ số sinh lời của TSLĐ =
Lợi nhuận sau thuế
TSLĐBQ
Hệ số này cho biết mỗi đơn vị TSLĐ có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. Hệ số sinh lợi của TSLĐ càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSLĐ càng tốt.
Tốc độ luân chuyển của hàng tồn kho
Trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì hàng tồn kho thường chiếm tỉ trọng cao trong tổng tài sản lưu động, do vậy hiệu quả sử dụng tài sản lưu động bị ảnh hưởng đáng kể của hiệu quả sử dụng hàng tồn kho. Khi phân tích hiệu quả của hàng tồn kho, ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
Số vòng quay của hàng tồn kho
Số vòng quay HTK =
Giá vốn hàng bán
HTK bình quân
Chỉ tiêu này cho biết, trong kì phân tích hàng tồn kho quay được bao nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn đầu tư hàng tồn kho vận động không ngừng đó là nhân tố để tăng doanh thu, góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Hệ số đảm nhiệm hàng tồn kho
Hệ số đảm nhiệm HTK =
HTK bình quân
Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp muốn có 1 đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư cho hàng tồn kho, chỉ tiêu này càng thấp thì chứng tỏ hiệu quả vốn đầu tư sử dụng cho hàng tồn kho càng cao. Thông qua chỉ tiêu này các nhà quản trị kinh doanh xây dựng kế hoạch về dự trữ, thu mua, sử dụng hàng hoá, thành phẩm một cách hợp lí góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Thời gian một vòng quay của hàng tồn kho
Thời gian một vòng quay của HTK =
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của hàng tồn kho
Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay của hàng tồn kho mất bao nhiêu ngày, chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ hàng tồn kho vận động nhanh.
Tăng tốc độ luân chuyển hàng tòn kho là rút ngắn thời gian hàng tồn kho nằm trong các khâu sản xuất kinh doanh. Đồng thời là điều kiện quan trọng để phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Kì thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân =
Tổng số ngày trong 1 kỳ (360 ngày)
Vòng quay phải thu trong kỳ
Trong đó:
Vòng quay khoản phải thu trong kỳ =
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân
Các khoản phải thu bình quân =
Các khoản phải thuđầu kỳ + Các khoản phải thucuối kỳ
2
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu, chỉ tiêu càng nhỏ chứng tỏ tốc độ thanh toán tiền hàng càng nhanh. Khả năng tài chính của doanh nghiệp dồi dào.
Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
(1) Khả năng thanh toán ngắn hạn
Khả năng thanh toán ngắn hạn =
TSLĐ
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng chuyển đổi thành tiền của các tài sản lưu động hiện có của doanh nghiệp có đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại.
(2) Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh =
TSLĐ - HTK
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp đối với các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp dồi dào. Tuy nhiên chỉ tiêu này cao quá kéo dài có thể dẫn tới vốn bằng tiền của doanh nghiệp nhàn rỗi, ứ đọng, dẫn đén hiệu quả sử dụng vốn thấp. Ngược lại, chỉ tiêu này thấp quá kéo dài ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và có thể dẫn tới doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản.
(3) Khả năng thanh toán tức thời
Khả năng thanh toán tức thời =
Tiền
Nợ đến hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ đến hạn bằng tiền hoặc các khoản tương đương tiền khi nợ ngắn hạn đã đến kỳ thanh toán.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp
Các nhân tố khách quan
Đây là các nhân tố có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và việc sử dụng tài sản lưu động nói riêng. Nhóm các nhân tố khách quan là những nhân tố mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được.
Chính sách quản lí vĩ mô của Nhà nước
Chính sách vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nói chung, từng ngành kinh tế nói riêng và từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp. Những chính sách đó có thể tác động đến nguồn tài trợ cho tài sản lưu động, ví dụ như nguồn vốn vay ngân hàng, tăng hay giảm phụ thuộc vào lãi suất cho vay của các ngân hàng. Nhà nước có thể ra những chính sách ảnh hưởng đến việc mua sắm các nguyên liệu đầu vào, hay đến việc dự trữ hàng hoá… như chính sách về xuất nhập khẩu nguyên vật liệu. Doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kĩ các chính sách của Nhà nước để có chính sách hoạt động cho phù hợp.
Môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong bất kì lĩnh vực nào đều có đối thủ cạnh tranh. Khi nền kinh tế phát triển, có sự mở rộng về các loại hình doanh nghiệp cũng như lĩnh vực hoạt động, thì yếu tố cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng tăng lên. Doanh nghiệp phải quan tâm nhiều hơn đến tính cạnh tranh khi lập kế hoạch mua nguyên vật liệu, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng nguyên vật liệu và dự trữ chỗ thừa, chỗ thiếu, ách tắc trong khâu lưu thông. Khi cạnh tranh ra tăng, việc đưa ra các biện pháp nhằm đẩy nhanh lượng hàng tiêu thụ khiến doanh nghiệp nới lỏng trong chính sách tín dụng làm cho việc quản lí các khoản phải thu khó khăn. Sự phát triển hay suy thoái của đối thủ cạnh tranh sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp.
Nhu cầu của thị trường
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá cho nên nhu cầu đối với mọi mặt hàng đều rất lớn. Vì vậy các doanh nghiệp thi nhau mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình ra khắp cả nước. Khi đó, TSLĐ cũng chịu sự ảnh hưởng, doanh nghiệp dự trữ nhiều hơn, các khoản phải thu có xu hướng giảm do có nhiều nguời tiêu dùng. Nhu cầu của người tiêu dùng về các sản phẩm dịch vụ thay đổi theo thời gian, vùng lãnh thổ, văn hoá…Sản phẩm cũng có chu kì sống của nó. Sản phẩm đang trong chu kì tăng trưỏng, nhu cầu tăng mạnh đòi hỏi phải dự trữ nhiều hơn hoặc khi ở thời kì suy thoái, nhu cầu giảm thì doanh nghiệp sẽ giảm lượng dự trữ xuống.
Sự phát triển khoa học công nghệ
Xã hội càng phát triển thì ngày càng có nhiều tiến bộ khoa học công nghệ ra đời, góp phần giảm các nguồn lực cần thiết cho sản xuất như sức người, sức của, thời gian. Việc áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất còn giúp doanh nghiệp đưa ra những sản phẩm có tính ưu việt hơn, giúp doanh nghiệp đánh bại các đối thủ, thu hút khách hàng từ đó tăng hiệu suất sử dụng tài sản lưu động hơn. Tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật cũng làm giảm giá trị tài sản, vật tư… Vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp để điều chỉnh kịp thời giá cả sản phẩm hàng hoá thì luợng hàng hoá bán ra sẽ thiếu tính cạnh tranh.
Các nhân tố chủ quan
Trong cùng một môi trường kinh doanh khách quan như nhau nhưng trong khi một số doanh nghiệp phát triển thì không ít doanh nghiệp kinh doanh trì trệ, thâm chí phá sản. Vậy nguyên nhân thất bại ở đây chính là ở bản thân doanh nghiệp. Những nhân tố chủ quan xuất phát từ chính doanh nghiệp nên các nhân tố này có thể khắc phục được.
Trình độ nguồn nhân lực
Đây là nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng to lớn đến việc quản lí tài sản lưu động của doanh nghiệp. Chính những con người này sẽ là yếu tố quyết định đến chính sách quản lí TSLĐ, việc đưa ra những quyết định quản lí đúng đắn hay sai lầm sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TSLĐ, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Mỗi doanh nghiệp hoạt động trong các ngành khác nhau, khả năng về tài chính và năng lực kinh doanh khác nhau sẽ có kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khác nhau. Vào kì sản xuất của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ sử dụng lượng nguyên vật liệu, hàng hoá lớn nên dự trữ tăng lên. Hoặc khi doanh nghiệp chuẩn bị cho công tác lưu thông thì công tác bán hàng đựoc chú trọng, lượng hàng gửi bán tăng lên thì TSLĐ cũng tăng lên. Việc lập kế hoạch ngay từ đầu kì giúp doanh nghiệp có lượng dự trữ hợp lí hạn chế những rủi ro có thể gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp
Đây có thể coi là một nhân tố quan trọng, một doanh nghiệp có hệ thống cơ sở hạ tầng (trụ sở làm việc, các cơ sở sản xuất, chi nhánh, hệ thống bán hàng ..) được bố trí hợp lí sẽ giúp doanh nghiệp sử dụng tài sản lưu động một cách có hiệu quả hơn. Ví dụ như, một kho chứa hàng tốt sẽ tránh được các khấu khao trong khi chứa hàng hoá. Khi người lao động được làm việc ở một môi trường thuận lợi, đảm bảo an toàn lao động thì tất nhiên là hiệu quả làm việc sẽ cao hơn. Và máy móc đựơc trang bị tiên tiến cũng đem lại những sản phẩm tốt hơn.
Công tác quản lí tài sản lưu động
(1) Quản lí hàng tồn kho
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ là những bước đệm cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Hàng tồn kho có 3 loại chính: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải dự trữ nguyên vật liệu. Nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn còn dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. Do vậy, việc dự trữ nguyên vật liệu có ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh.
Hàng tồn kho trong quá trình sản xuất là các nguyên vật liệu nằm ở các công đoạn của dây chuyền sản xuất. Nếu dây chuyền sản xuất càng dài và càng nhiều công đoạn sản xuất thì hàng tồn kho trong quá trình sản xuất sẽ càng lớn. Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục.
Khi tiến hành sản xuất xong, do có độ trễ nhất định giữa sản xuất và tiêu thụ, do những chính sách thị trường của doanh nghiệp trong việc bán hàng… đã hình thành nên bộ phận thành phẩm tồn kho.
Hàng hoá dự trữ đối với các doanh nghiệp gồm 3 bộ phận như trên, nhưng thông thường trong quá trình quản lý chúng ta tập trung vào bộ phận thứ nhất, tức là nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất kinh doanh.
Có nhiều phương pháp được đưa ra nhằm xác định mức dự trữ tối ưu.
· Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả nhất - EOQ (Economic Odering Quantity).
Mô hình được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau. Theo mô hình này, mức dự trữ tối ưu là:
Q* =
Trong đó:
Q*: mức dự trữ tối ưu
D : toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng
C2 : chi phí mỗi lần đặt hàng (chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển hàng hoá).
C1 : chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá (chi phí bốc xếp, bảo hiểm, bảo quản…).
Điểm đặt hàng mới:
Về mặt lý thuyết người ta giả định khi nào lượng hàng kỳ trước hết mới nhập kho lượng hàng mới nhưng trên thực tế hầu như không bao giờ như vậy. Nhưng nếu doanh nghiệp đặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho. Do vậy các doanh nghiệp cần phải xác định thời điểm đặt hàng mới.
Thời điểm đặ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3178.doc.doc