Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty chứng khoán habubank

Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại các trường đại học, mỗi sinh viên đều được trang bị cho mình một hệ thống kiến thức về chuyên môn khá đầy đủ và cần thiết. Tuy nhiên, từ lý thuyết đến thực tế là một khoảng cách khá xa, nhất là trong điều kiện nền kinh tế - xã hội luôn có sự thay đổi đến chóng mặt. Do đó, giải pháp cần thiết để thu hẹp khoảng cách đó là thực hành. Hiện nay, các trường đại học đều đã và đang tạo mọi điều kiện để cho các sinh viên có một khoảng thời gian thực tập tại các tổ chức kinh tế xã hội, để có thể từng bước tiếp cận với công việc tương lai một cách nhanh nhất. Là một sinh viên khoa Tài chính – Ngân hàng, trường đại học Kinh tế quốc dân, em cũng đã có được những ngày đầu thực tập vô cùng hữu ích tại Công ty Chứng khoán Ngân hàng Habubank (HBBS). Tại đây, qua một thời gian thực tập, nghiên cứu, tìm hiểu các hoạt động cũng như nghiệp vụ của các phòng ban khác nhau trong Công ty, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập với đề tài là

“NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN

TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN HABUBANK”.

Trên cơ sở đó, chuyên đề thực tập của em bao gồm các phần sau:

Chương 1: Môi giới chứng khoán và hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán

Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty Chứng khoán Habubank

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới tại Công ty Chứng khoán Habubank

 

 

doc86 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty chứng khoán habubank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại các trường đại học, mỗi sinh viên đều được trang bị cho mình một hệ thống kiến thức về chuyên môn khá đầy đủ và cần thiết. Tuy nhiên, từ lý thuyết đến thực tế là một khoảng cách khá xa, nhất là trong điều kiện nền kinh tế - xã hội luôn có sự thay đổi đến chóng mặt. Do đó, giải pháp cần thiết để thu hẹp khoảng cách đó là thực hành. Hiện nay, các trường đại học đều đã và đang tạo mọi điều kiện để cho các sinh viên có một khoảng thời gian thực tập tại các tổ chức kinh tế xã hội, để có thể từng bước tiếp cận với công việc tương lai một cách nhanh nhất. Là một sinh viên khoa Tài chính – Ngân hàng, trường đại học Kinh tế quốc dân, em cũng đã có được những ngày đầu thực tập vô cùng hữu ích tại Công ty Chứng khoán Ngân hàng Habubank (HBBS). Tại đây, qua một thời gian thực tập, nghiên cứu, tìm hiểu các hoạt động cũng như nghiệp vụ của các phòng ban khác nhau trong Công ty, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập với đề tài là “NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN HABUBANK”. Trên cơ sở đó, chuyên đề thực tập của em bao gồm các phần sau: Chương 1: Môi giới chứng khoán và hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty Chứng khoán Habubank Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới tại Công ty Chứng khoán Habubank CHƯƠNG 1 MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1 Tổng quan về Công ty chứng khoán (CTCK) 1.1.1 Khái niệm CTCK Hiện có nhiều định nghĩa về CTCK. Ở Việt Nam, các CTCK là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp (Theo Quyết định số 55/2004/QĐ-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính). Tóm lại, CTCK là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. 1.1.2 Phân loại CTCK 1.1.2.1 Theo mô hình tổ chức Hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường vì CTCK là một loại hình định chế đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của nó cũng có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Mô hình tổ chức kinh doanh ở mỗi nước đều có những điểm riêng tùy theo đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, có thể khái quát thành hai mô hình cơ bản hiện nay: Mô hình CTCK đa năng: Theo mô hình này, CTCK được tổ chức dưới tổ hợp tài chính dịch vụ tổng hợp gồm: kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Có hai loại CTCK đa năng: Công ty đa năng một phần: các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con kinh doanh độc lập. Công ty đa năng hoàn toàn: các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh tổng hợp ( chứng khoán, tiền tệ, bảo hiểm). Mô hình này có ưu điểm là liên kết nhiều lĩnh vực kinh doanh, do đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh chung, có khả năng chịu đựng sự biến động của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu như thị trường có biến động mạnh thì hoạt động kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng nếu không tách bạch rõ ràng các nghiệp vụ kinh doanh. Các nước châu Âu, Anh, Úc thường áp dụng mô hình công ty đa năng. Mô hình CTCK chuyên doanh: Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các CTCK độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán. Mô hình này được áp dụng cho nhiều nước như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Canada… Mô hình này có ưu điểm là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên, khả năng san bằng rủi ro trong kinh doanh bị hạn chế. Trong thời gian gần đây, các nước áp dụng mô hình này có xu hướng giảm dần sự hạn chế đối với ngân hàng thương mại trong nghiệp vụ chứng khoán. 1.1.2.2 Theo loại hình tổ chức Hiện nay, có ba loại hình tổ chức cơ bản của CTCK, đó là công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Công ty hợp danh: Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở lên. Thành viên của CTCK hợp danh bao gồm: thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Các thành viên góp vốn không than gia điều hành công ty. Họ chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh không được quyền phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với chủ sở hữu là các cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của luật chứng khoán hiện hành. Công ty trách nhiệm hữu hạn: Thành viên của công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm không được phép phát hành cổ phiếu. 1.1.2.3 Theo hình thức kinh doanh Công ty môi giới: Loại công ty này còn được gọi là công ty thành viên vì nó là một thành viên của Sở Giao dịch Chứng khoán. Công việc kinh doanh chủ yếu của công ty môi giới là là mua và bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên Sở giao dịch chứng khoán mà công ty đó là thành viên. Công ty đầu tư ngân hàng: Loại công ty này phân phối những chứng khoán mới dược phát hành cho công chúng thông qua việc mua bán chứng khoán do công ty cổ phần phát hành và bán lại cho công chúng theo giá tích gộp cả lợi nhuận của công ty. Vì vậy, công ty này còn gọi là nhà bảo lãnh phát hành. Công ty giao dịch phi tập trung: Công ty này mua bán chứng khoán tại thị trường OTC. Công ty dịch vụ đa năng: Những công ty này không bị giới hạn hoạt động ở một lĩnh vực nào của nghành công nghiệp chứng khoán. Ngoài ba dịch vụ trên, họ còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, niêm yết chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán, ủy nhiệm các giao dịch buôn bán cho khách hàng trên thị trường OTC. Sự kết hợp giữa sản phẩm và kinh nghiệm của công ty sẽ quyết định cơ sở những dịch vụ mà họ cung cấp cho khách hàng. Công ty buôn bán chứng khoán: Là công ty đứng ra mua bán chứng khoán với chi phí do công ty tự chịu. Công ty phải cố gắng bán chứng khoán cao hơn giá mua vào. Vì vậy, loại công ty này hoạt động với tư cách là người ủy thác chứ không phải là đại lý nhận ủy thác. Công ty buôn bán chứng khoán không nhận hoa hồng: Loại CTCK này nhận chênh lệch giá qua việc buôn bán chứng khoán, do đó họ còn được gọi là nhà tạo lập thị trường, nhất là trên thị trường OTC. 1.1.3 Các nghiệp vụ chính của CTCK 1.1.3.1 Nghiệp vụ môi giới Môi giới chứng khoán là các hoạt động mua bán chứng khoán theo hợp đồng ủy thác giao dịch của khách hàng. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 144/2003/NĐ – CP ngày 28/11/2003 của Chính Phủ thì nghiệp vụ môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. 1.1.3.2 Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán Giao dịch tự doanh là các giao dịch bằng chính nguồn vốn kinh doanh của CTCK nhằm mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi cho chính mình. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 144/2003/NĐ – CP của Chính phủ thì nghiệp vụ tự doanh là việc CTCK mua và bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên Sở Giao dịch Chứng khoán hoặc thị trường OTC. Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song song với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho mình. Vì vậy, trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện lệnh cho khách hàng và thực hiện lệnh cho công ty. Do đó, Luật pháp của các nước đều yêu cầu tách bạch rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình. Khác với nghiệp vụ môi giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh CTCK kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, CTCK đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường. 1.1.3.3 Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành Hoạt động bảo lãnh phát hành là hoạt động hỗ trợ cho thành công của các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng của các tổ chức phát hành của các CTCK. Theo Nghị định 48/1998/QĐ – CP ngày 11/7/1998 thì các CTCK ở Việt Nam được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Hoạt động này được thực hiện ở thị trường sơ cấp, bao gồm: nghiên cứu, tư vấn cho tổ chức phát hành về các thủ tục và phương pháp phát hành,cơ cấu giá…; thỏa thuận với nhà bảo lãnh trong việc tiếp thị, phân phối chào bán chứng khoán; quản lý phân phối và thanh toán chứng khoán; thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và dịch vụ sau khi phát hành; đại lý phân phối chứng khoán. Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các CTCK thu về hoa hồng bảo lãnh. Hoa hồng này có là cố định, có thể là biến đổi tùy theo quy định của từng CTCK. 1.1.3.4 Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán Cũng như các hoạt động tư vấn khác, nội dung của hoạt động tư vấn chứng khoán là đưa ra những lời khuyên, phân tích các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ khác có liên quan đến phát hành, đâu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Trong hoạt động tư vấn tài chính, CTCK còn cung cấp cho khách hàng là các doanh nghiệp các dịch vụ trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán, tái cơ cấu tài chính, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát hành và niêm yết chứng khoán. CTCK cung cấp thông tin, cách thức đầu tư, thời điểm đầu tư và quan trọng nhất là loại chứng khoán đầu tư phù hợp với khách hàng của mình. Thông thường hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán luôn gắn liền với các hoạt động nghiệp vụ khác như môi giới, bảo lãnh phát hành. 1.1.3.5 Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư Đây là nghiệp vụ quản lý vốn ủy thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng ủy thác tiền cho CTCK thay mặt mình đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp nhận hoặc yêu cầu (mức lợi nhuận kỳ vọng, rủi ro có thể chấp nhận…). 1.1.4 Chức năng, vai trò của CTCK 1.1.4.1 Chức năng của CTCK CTCK có bốn chức năng chủ yếu trên thị trường tài chính: Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi ( nhà đầu tư) đến người muốn huy động vốn (công ty cổ phần, Chính phủ) thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành. Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch, cho giá trị của các khoản đầu tư thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh. Cung cấp cơ chế chuyển ra tiền mặt cho các nhà đầu tư, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán. Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò của nhà tạo lập thị trường. 1.1.4.2 Vai trò của CTCK Đối với các tổ chức phát hành Vai trò huy động vốn Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, không phải tự họ đi bán số chứng khoán mà họ định phát hành. Họ không thể làm tốt được việc đó bởi họ không có bộ máy chuyên môn. Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Đó là các CTCK, với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện được vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả nhà đầu tư và người phát hành. Các ngân hàng, các CTCK và các quỹ đầu tư đều là các trung gian tài chính với vai trò huy động vốn. Nói một cách đơn giản, các tổ chức này có vai trò làm chiếc cầu nối và đồng thời là các kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu vốn. Thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ cho các nhà phát hành. Đối với các nhà đầu tư Giảm chi phí và thời gian giao dịch Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với các hàng hóa thông thương, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với thị trường chứng khoán, sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao làm những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả. Cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính Các CTCK với dịch vụ tổng hợp không chỉ thực hiện lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn, cung cấp các thông tin đa dạng, nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và nhà đầu tư cá nhân. Công ty có thể tư vấn về: thu thập và xử lý thông tin về các khả năng và cơ hội đầu tư, triển vọng ngắn và dài hạn của thị trường chứng khoán và các công ty trong thời gian hiện tại và tương lai, tư vấn đầu tư chứng khoán… Đối với thị trường chứng khoán Vai trò xác định giá cả chứng khoán Giá cả chứng khoán do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua CTCK vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Thông qua Sở giao dịch chứng khoán, thị trường OTC, các CTCK cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Vai trò điều tiết thị trường CTCK còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định của các nước, CTCK bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán ra khi giá chứng khoán cao. Vai trò tăng tính thanh khoản cho chứng khoán Các CTCK thực hiện cơ chế chuyển đổi này, từ đó giúp nhà đàu tư thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại một cách ít thiệt hại nhất. Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại trong một môi trường ổn định. Các CTCK đảm nhận chức năng này, giúp nhà đầu tư ít chịu thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư. Thúc đẩy vòng quay của chứng khoán Các CTCK cũng là người tạo ra sản phẩm bằng cách cung cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau. Qua đó, họ góp phần làm tăng vòng quay của chứng khoán qua việc chú ý đến nhu cầu của người đầu tư, cải tiến các công cụ tài chính của mình làm cho chúng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Tạo ra sản phẩm mới Trong mấy năm gần lại đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với tốc độ rất nhanh do một số nguyên nhân, trong đó có yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng dối với thị trường tài chính và sự nỗ lực trong tiếp thị của các CTCK. Các CTCK có các dịch vụ yểm trợ rất to lớn đối với thị trường, vì mỗi loại sản phẩm tài chính có những quy trình riêng biệt và nhu cầu của khách hàng là đa dạng khác nhau. Đối với các cơ quan quản lý thị trường. Các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường. Các CTCK thực hiện được vai trò này bởi họ vừa là người bảo lãnh phát hành các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của thị trường chứng khoán là công khai hóa thông tin dưới sự giám sát của cơ quan quản lý thị trường. Các thông tin mà CTCK có thể cung cấp gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư… Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. 1.2 Hoạt động môi giới chứng khoán tại CTCK 1.2.1 Khái niệm Môi giới chứng khoán là một trong những hoạt động đặc trưng và cơ bản của CTCK. Việc giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung không được thực hiện trực tiếp bởi người mua và người bán mà do những người môi giới đại diện cho CTCK thực hiện. Theo Giáo trình thị trường chứng khoán, Đại học Kinh tế Quốc dân xuất bản năm 2007 thì môi giới chứng khoán được định nghĩa như sau: “Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của chính mình” Hoạt động môi giới chứng khoán khác so với các hoạt động môi giới khác. Không chỉ rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian giữa người mua và người bán, tiết kiệm chi phí mà hoạt động môi giới chứng khoán có những đặc trưng của thị trường cao cấp với những sản phẩm và dịch vụ tài chính đa dạng, phức tạp. Để được hoạt động môi giới chứng khoán, CTCK phải đáp ứng dược các điều kiện về giấy phép thành lập, vốn pháp định (theo quy định hiện nay thì hoạt động môi giới chứng khoán cần vốn pháp định là 25 tỷ), về giấy phép hành nghề của giám đốc và nhân viên môi giới, về điều kiện cơ sở vật chất. Hoạt động môi giới chứng khoán có một số đặc điểm nổi bật sau đây: Môi giới chứng khoán là sản phẩm của thị trường cấp cao Đây là thị trường buôn bán các công cụ tài chính, loại hàng hóa đặc biệt mà không thể đánh giá trực tiếp chất lượng của chúng bằng các giác quan như hàng hóa thông thường. Chứng khoán là những giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư; chứng khoán xác nhận quyền sỏ hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp của người nắm giũ. Do vậy việc đánh giá giá trị của chứng khoán phải có một hệ thống thu thập và xử lý thông tin để làm việc đó. Môi giới chứng khoán có độ rủi ro thấp và thu nhập khá ổn định Môi giới chứng khoán chỉ đóng vai trò trung gian đại diện mua, bán chứng khoán, khách hàng là người chịu trách nhiệm đối với quyết định giao dịch của mình nên đây là hoạt động tương đối an toàn. Trong hoạt động tư vấn, người tư vấn đưa ra lời khuyên cho khách hàng của mình trên cở sở phân tích các thông tin, khả năng nhận định diễn biến thị trường của bản thân, tuy nhiên khách hàng là người quyết định cuối cùng, những lời tư vấn đó mang tính chất tham khảo do vậy người môi giới cũng không phải chịu trách nhiệm về lời khuyên do mình đưa ra. Ngoài ra, trên mỗi giao dịch người môi giới được hưởng một tỷ lệ hoa hồng nhất định đã được quy định trước. Dù khách hàng mua hay bán, giao dịch lãi hay thua lỗ, người môi giới đều thu được phí môi giới. 1.2.2 Chức năng, vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán 1.2.2.1 Chức năng Cung cấp dịch vụ với hai tư cách: Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư, cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư. Nối liền những người bán và những người mua: đem đến cho khách hàng tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính. Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết: trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời. Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mứa (điển hình là sợ hãi và tham lam), để giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo. Đề xuất thời điểm bán hàng. 1.2.2.2 Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán Đối với nhà đầu tư: Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng Thông tin đóng vai trò cực kì quan trọng trên thị trường chứng khoán, ảnh hưởng rất nhiều tới giá cả chứng khoán và quyết định mua bán của nhà đầu tư. Với sự hỗ trợ của bộ phận nghiên cứu của công ty, các nhân viên môi giới cung cấp cho khách hàng các thông tin có liên quan đến tình hình thị trường, chứng khoán niêm yết và các thông tin có liên quan khác. Do đặc thù công việc được tiếp cận với một mạng lưới các thông tin liên quan đến tài chính như lãi suất, tỷ giá, thông tin thị trường, các báo cáo tài chính, tin kinh tế… người môi giới chứng khoán luôn có được những thông tin mới nhất, từ đó cung cấp cho khách hàng của mình một cách nhanh nhất. Dựa trên các thông tin này, nhà đầu tư tiến hành tổng hợp, phân tích để đưa ra các quyết định hợp lý về việc mua bán chứng khoán. Bên cạnh đó, người môi giới với kiến thức đầy đủ có thể trở thành nhà tư vấn tài chính riêng cho khách hàng. Không phải nhà đầu tư nào khi tham gia thị trường chứng khoán đều được những hiểu biết sâu rộng và từng chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung, do vậy ảnh hưởng đến kết quả đầu tư của mình. Các nhà môi giới chứng khoán là các chuyên gia tài chính, họ có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có khả năng phân tích cũng như nhận định thị trường nên có thể trở thành người tư vấn đáng tin cậy cho nhà đầu tư. Khi mà thị trường chứng khoán ngày càng phát triển với nhiều hàng hóa phong phú, đa dạng, khi đó vai trò của nhà môi giới càng trở nên quan trọng. Bởi vì ngoài việc đề xuất với khách hàng những chứng khoán và dịch vụ đơn thuần, người môi giới còn phải giới thiệu những chứng khoán mới và cao hơn nữa là tư vấn cho khách hàng cách thức kết hợp những chứng khoán đơn lẻ trong một danh mục đầu tư để giảm rủi ro và tăng lợi nhuận. Nhà môi giới không chỉ đưa ra lời khuyên về phân bổ sản phẩm như thế nào nhằm đáp ứng mục tiêu tài chính của khách hàng mà nhiều khi họ trở thành người bạn tin cậy, nhà tâm lý học chia sẻ, giải tỏa căng thẳng tâm lý, lắng nghe tất cả các câu hỏi liên quan đến tình trạng tài chính của khách hàng và trong một chừng mực có thể, đưa ra giải pháp thích hợp. Giảm chi phí và thời gian giao dịch. Trên thị trường hàng hóa thông thường để cho các giao dịch được diễn ra thì người mua và người bán phải có cơ hội tìm được nhau. Muốn như vậy, họ phải tiêu tốn nhiều thời gian và tiền bạc cho việc quảng cáo ý đồ của mình và tìm đối tác phù hợp. Không chỉ vậy, giao dịch chỉ được tiến hành khi chất lượng hàng hóa được thẩm định và giá cả được thỏa thuận. Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán – một thị trường cấp cao, thì việc đánh giá đúng chất lượng và giá cả của hàng hóa cần đến rất nhiều thời gian, tiền bạc và công sức để thu thập và xử lý thông tin cũng như các kĩ năng cần thiết để phân tích các thông tin. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán của hàng triệu người, các giao dịch diễn ra từng phút, từng giây, điều này đòi hỏi nhà đầu tư tham gia thị trường pahir đặc biệt nhanh nhạy, nắm bắt cơ hội. Muốn vậy, nhà đầu tư phải thu thập thông tin từ nhiều phía. Do vậy, CTCK với hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn với tiềm lực tài chính mạnh và đội ngũ nhân viên môi giới trình độ cao mới đáp ứng được yêu cầu trên. Với tư cách trung gian, hoạt động môi giới tạo cầu nối cho bên mua, bên bán gặp nhau, giúp giảm chi phí, thời gian tìm kiems dói tác, chi phí soản thảo và giám sát thực thị hợp đồng từ đó góp phần tăng tính thanh khoản của tài sản tài chính, tính sôi động của thị trường chứng khoán. Đối với bản thân CTCK: Tăng thu nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK. Thu nhập từ hoạt động môi giới chiếm một tỷ trọng lớn trong thu nhập của CTCK, bên cạnh thu nhập từ hoạt động tự doanh. Nguồn thu của môi giới chủ yếu là hoa hồng môi giới, ngoài ra là các khoản tiền lãi ứng trước tiền bán, các khoản phí cho những dịch vụ và sản phẩm đặc biệt… CTCK với hoạt động môi giới đóng vai trò trung gian thực hiện giao dịch cho khách hàng có thể nắm bắt được các nhu cầu cũng nhu mong muốn của khách hàng. Từ đó cho ra đời những sản phẩm dịch vụ tài chính tiện ích, thu hút thêm nhiều khách hàng cho công ty. Ngoài ra, với sự lao động nghiêm túc, không ngừng học tập trau dồi những kỹ năng kiến thức, nâng cao đạo đức trong nghề, đội ngũ nhân viên môi giới thường xuyên tiếp xúc với khách hàng đã góp phần tạo nên hình ảnh tốt đẹp về mình và về công ty trong lòng khách hàng, nâng cao uy tín và tăng tính cạnh tranh cho công ty. Đối với thị trường chứng khoán: Phát triển dịch vụ và sản phẩm trên thị trường chứng khoán Khi thực hiện vai trò trung gian giữa người mua và người bán, CTCK và các nhân viên môi giới sẽ nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh những nhu cầu đó tới người cung cấp các hàng hóa, sản phẩ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2629.doc
Tài liệu liên quan