Trong xu thế hội nhập hiện nay, cạnh tranh giữa các ngành, lĩnh vực diễn ra gay gắt trên nhiều mặt và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan trọng, ngành kinh tế trụ cột trong nền kinh tế. Sự phát triển bền vững của ngành góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong hoạt động của ngân hàng thì tín dụng là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong bảng tổng kết tài sản và là hoạt động đem lại thu nhập lớn nhất. Tuy nhiên đây cũng là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng thương mại vì nếu chất lượng tín dụng không tốt dễ dẫn đến rủi ro tín dụng và làm giảm lợi nhuận cũng như ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đồng nghĩa với việc ảnh hưởng tới sự phát triển chung của nền kinh tế. Đặc biệt NHNo&PTNT Việt Nam - một trong 4 ngân hàng thương mại lớn nhất cả nước với mạng lưới hoạt động rộng khắp, hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế vấn đề quản lý chất lượng tín dụng có hiệu quả lại càng quan trọng. Xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn đó đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS Vương Trọng Nghĩa và sự giúp đỡ tận tình của cán bộ, nhân viên phòng tín dụng, toàn thể cán bộ công nhân viên NHNo&PTNT Tây Hà Nội em đã đi mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “ Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội” để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Thông qua việc nghiên cứu em muốn tìm hiểu sâu về hoạt động tín dụng của ngân hàng và các biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội để thấy được những thành công cũng như hạn chế và nguyên nhân của thực trạng chât lượng tín dụng tại chi nhánh. Từ đó đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trong thời gian tới.
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về chất lượng tín dụng ngân hàng
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội
75 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 973 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập hiện nay, cạnh tranh giữa các ngành, lĩnh vực diễn ra gay gắt trên nhiều mặt và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan trọng, ngành kinh tế trụ cột trong nền kinh tế. Sự phát triển bền vững của ngành góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong hoạt động của ngân hàng thì tín dụng là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong bảng tổng kết tài sản và là hoạt động đem lại thu nhập lớn nhất. Tuy nhiên đây cũng là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng luôn là mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng thương mại vì nếu chất lượng tín dụng không tốt dễ dẫn đến rủi ro tín dụng và làm giảm lợi nhuận cũng như ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đồng nghĩa với việc ảnh hưởng tới sự phát triển chung của nền kinh tế. Đặc biệt NHNo&PTNT Việt Nam - một trong 4 ngân hàng thương mại lớn nhất cả nước với mạng lưới hoạt động rộng khắp, hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế vấn đề quản lý chất lượng tín dụng có hiệu quả lại càng quan trọng. Xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn đó đồng thời được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS Vương Trọng Nghĩa và sự giúp đỡ tận tình của cán bộ, nhân viên phòng tín dụng, toàn thể cán bộ công nhân viên NHNo&PTNT Tây Hà Nội em đã đi mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “ Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội” để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Thông qua việc nghiên cứu em muốn tìm hiểu sâu về hoạt động tín dụng của ngân hàng và các biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội để thấy được những thành công cũng như hạn chế và nguyên nhân của thực trạng chât lượng tín dụng tại chi nhánh. Từ đó đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trong thời gian tới.
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về chất lượng tín dụng ngân hàng
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1 Hoạt động của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doan nào trong nền kinh tế.
Hoạt động huy động vốn
Cho vay là một hoạt động sinh lời cao và là nguồn thu nhập chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng ngày càng phát triển mạnh và các ngân hàng có những biện pháp huy động vốn sau:
Nhận tiền gửi
Một trong những nguồn vốn huy động quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người gửi tiết kiệm với cam kết hoàn trả đúng hạn. Đây là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, tổ chức và dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Nguồn này bao gồm:
Tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thưnh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép các nhu cầu chi trả của cá nhân, doanh nghiệp và cá nhân đều đựơc ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của cá nhân, doanh nghiệp đều được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung lãi suất của khoản tiền này là rất thấp thay vào đó các chủ tài khoản được hưởng dịch vụ ngân hàng với chi phí thấp.
Tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu nhập bằng tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian nhất định. Theo hình thức này người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán như đối với tiền gửi thanh toán. Nếu cần chi tiêu thì họ phải đến ngân hàng rút tiền tuy nhiên lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài kì hạn.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Trong điều kiện khả năng tiếp cânk với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện mục tiêu an toàn cà sinh lợi đối với các khoản tiền gửi tiết kiệm đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
Tiền gửi của các ngân hàng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại các ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn.
Phát hành giấy tờ có giá
Giống như các doanh nghiệp khác các ngân hàng cũng vay mựơn bằng cách phát hành giấy nợ (kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn nên không thể cho vay trung và dài hạn. Do đó các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ xung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng nào có uy tín hợc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngấn hàng. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp.
Vay của ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng khác
Vay của ngân hàng nhà nước là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trã bắt buộc, ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu.Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ tiền mặt tăng lên. Ngân hàng nhà nước điều hành vay mượn một cách chặt chẽ, các ngân hàng thương mại phải thực hiện những điều kiện kiểm soát nhất định.
Ngoài ra các ngân hàng còn tiến hành vay mựơn của các tổ chức tín dụng khác. Đây là nguồn các ngân hàng thương mại vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt mức yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay có thê sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay mượn để tìm kiếm lãi súât cao hơn và ngược lại.
Nguồn khác
Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, nguồn khác
Nguồn uỷ thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như: uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát và uỷ thác giải ngân và thu hộ… Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác trong các ngân hàng và làm gia tăng nguồn vốn của các ngân hàng.
Nguồn trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C…)
Nguồn khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp,lương chưa trả…
Hoạt động tín dụng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của quản lý ngân hàng là kiếm được lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Nhà quản lý ngân hàng cũng phải quyết định phân chia vốn trong phạm vi các khoản mục cho vay, nghĩa là vốn phải được phân thành các khoản mục cho vay tiêu dùng, cho vay thương mại, cho vay bất động sản và cho vay khác.Hoạt động tín dụng cũng có thể đựoc phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Sự phân chia này được thực hiện trên cơ sở khả năng sinh lợi và nhu cầu tín dụng, phù hợp với các giới hạn và các quy định phải tuân theo.
Hoạt động dịch vụ
Ngoài các hoạt động tín dụng, đầu tư các ngân hàng thương mại còn cung cấp một danh mục các sản phẩm dịch vụ đa dạng nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư trong nền kinh tế:
Cung cấp các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Ngân hàng không chỉ nhận tiền gửi mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho các khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt tại các ngân hàng, tức là người gửi tiền không phải đến ngân hàng để rút tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng (séc). Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin nhiều hình thức thanh toán được phát triển như: uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thanh toán L/C…Ngoài ra hiện nay hầu hết các ngân hàng còn mở rộng và phát triển các sản phẩm thẻ để phục vụ nhu cầu thanh toán như thẻ ATM, thẻ tín dung., thẻ thanh toán… tạo nên sự thuận tiện cho khách hàng trong việc thanh toán và thông qua đó ngân hàng thu được phí dịch vụ.
Khi các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của các cá nhân, tổ chức ngân hàng do đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kiinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàn dịch vụ quản lý ngân quỹ. Trong đó ngân hàng thực hiện nhiệm vụ thu, chi cho một công ty kinh doanh.
Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền của các khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác… và thu phí bảo lãnh..
Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở nhiều nơi. Do đó nhiều ngân hàng lớn thường cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong hoạt động đồng tài trợ..
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Khái niệm và phân loại
Khái niệm
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay trong cả quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch từ quỹ người cho vay sang quỹ người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá đến bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch gữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người vay phải thanh toán cả vốn gốc và lãi.
Trên cơ sở tiếp cận tín dụng theo chức năng cơ bản của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên di vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo toả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tái sản trên cơ sở hoàn trả và có những đặc trưng sau:
+ Tài sản trong quan hệ giao dịch tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 60 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ cho vay và tín dụng được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 70 trở lại đây cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng và các định chế tài chính kháccung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực.
+ Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển tà sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm với khách hàng mà chú trọng dến các bảo đảm, chính quan điểm này đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
+ Giá trị lúc hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm cả phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện đựơc nguyên tăc này thì phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương. Tuy nhiên lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
+ Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước thực chất là lệnh phiếu trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Phân loại tín dụng ngân hàng
Phân loại tín dụng theo thời gian
Việc phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian có mối liên hệ mật thiết với tính an toàn và khả năng sinh lời của của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho đến khi đồng vốn cuối cùng được thu về.
Phân loại tín dụng theo thời gian bao gồm:
+ Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống;
+ Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng;
+ Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 60 tháng
Tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tái sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhá nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp , cho vay từng lần hoặc cho vay theo hạn mức, có hoặc không có tái sản đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
+ Ngân hàng cho vay đối với các doanh nghiệp nhằm tái trợ cho nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là khách hàng chiếm số lượng
Tín dụng trung và dài hạn
Doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật công nghệ… Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, để tồn tại và phát triển , nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao.
+ Cho vay bằng cách mua các trái phiếu: các ngân hàng mua trái phiếu trung, dài hạn của doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu tình hình tài chính doanh nghiệp, kế hoạch tương lai…đều được ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu.
+ Cho vay theo các dự án: Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định…nhằm thực hiện các dự án nhất định có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trinìh thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quýêt định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
Nhu cầu tài trợ cho đầu tư nếu không được sự trợ giúp của hệ thống ngân hàng thì không thể thoả mãn được do vậy các ngân hàng luôn luôn cố gắng và tìm các thể thức phù hợp và không ngừng mở rộng các khoản cho vay trung và dài hạn
Phân loại tín dụng theo hình thức
Theo hình thức cho vay thì có thể phân loại tín dụng thành: cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê.
Cho vay
Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Các phương thức cho vay
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
- Cho vay từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi:
- Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng trong một thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể vay, trả nhiều lần, song dư nợ không vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng vốn vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ ngân hàng sẽ cấp tiền cho khách hàng.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý khách hàng phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và tiêu thụ.
- Cho vay trả góp : Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thờng được áp dụng đối với các khoản cho vay trung, dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần sẽ được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp băng tài sản mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu ngưòi vay mất việc hoặc ốm đau thu nhập giảm sút thì thu nhập của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Bảo lãnh
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như cam kếtvới bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Bảo lãnh thường có 3 bên: bên bảo lãnh (ngân hàng), bên được bảo lãnh (khách hàng của ngân hàng), bên hưởng bảo lãnh(bên thứ ba).
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào tài sản xấu trong nội bảng và cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và cần phải phân tích khách hàng như khi cho vay.
Cho thuê
Đây là hình thức mà ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
Cho thuê giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ ngân hàng phải xuất tiền vơí kì vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau một thời hạn nhất định; khách hàng phải trả gốc và lãi dưới dạng tiền thuê hàng kì. Ngân hàng cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên có nhiều điểm khác với cho vay như tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng, ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng, đồng thời ngân hàng cũng phải có trách nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách hàng và phải bảo đảm về chất lượng của sản phẩm đó
Chiết khấu
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí. Ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người thu lệnh phiếu nếu là hối phiếu, hoặc ở người phát hành nếu là lệnh phiếu, khi đến hạn thanh toán.
Giữa nghiệp vụ chiết khấu và nghiệp vụ cho vay có những điểm giống và khác nhau:
- Giống nhau: Khách hàng được sử dụng một khoản ứng trước của ngân hàng; sau một thời gian ngân hàng được hoàn trả cả gốc và lãi
- Khác nhau: Trong cho vay ngân hàng đứng ra thu nợ trực tiếp người vay còn trong nghiệp vụ chiết khấu thì ngân hàng ngân hàng không thu nợ người chiết khấu mà thu nợ ở người phải thanh toán tiền của người xin chiết khấu; cho vay có nhiều loại ngắn hạn, trung hạn, dài hạn còn chiết khấu chỉ có 1 loại là ngắn hạn.
Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế
Theo cách phân loại này tín dụng được chia thành các hình thức sau
Tín dụng đối với doanh nghiệp nhà nước
Tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Tín dụng đối với cá thể, hộ gia đình
Phân loại tín dụng theo rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này các ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo mức độ rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản nội bảng và ngoại bảng. Cách phân loại này giúp cho ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất tạm thời.
Theo Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN thì có thể chia tín dụng theo 5 nhóm thể hiện mức độ rủi ro từ thấp đến cao:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuần;
Nhóm 2: nợ cần chú ý;
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn;
Nhóm 4 : Nợ nghi ngờ;
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn.
Quy trình tín dụng ngân hàng
Sơ đồ: Quy trình tín dụng ngân hàng
Chất lượng tín dụng ngân hàng
1.2.1 Khái niệm
Chất lượng tín dụng được các nhà kinh tế nói đến bằng nhiều cách khác nhau nhưng chúng ta có thể hiểu rằng “Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hộivà đảm bảo sự tồn tại của ngân hàng”.
Đối với ngân hàng thương mại: chất lượng tín dụng nghĩa là phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo tính cạnh tranh trên thị thrường với nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và có lãi.
Nhận xét: Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
- Chất lượng tín dụng được xác định thông qua nhiều yếu tố: Khả năng thu hút khách hàng, mức độ an toàn của các khoản tín dụng, vòng quay vốn tín dụng…
- Để có chất lượng tín dụng cao phải có các biện pháp quản lý chất lượng và đồng bộ, đây là cách quản lý mới, nó không chỉ đảm bảo chất lượng tín dụng mà còn thoả mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Để làm được điều đó mỗi một thành viên trong ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng.
Như vậy chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng lớn, quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Chất lượng tín dụng có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng.
+ Chất lượng tín dụng tốt làm tăng khả năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng thu hút thêm nhiều khách hàng bởi sự đa dạng và chất lượng của các sản phẩm dịch vụ, nâng cao uy tín của ngân hàng tạo được sự trung thành của khách hàng đối với ngân hàng.
+ Chất lượng tín dụng tốt còn làm tằng khả năng sinh lợi của các sản phẩm dịch vụ do giảm sự chậm trễ, chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý và làm giảm thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay từ đó cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng
Việc đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng là rất khó khăn và không có nhiều chỉ tiêu cụ thể. Các ngân hàng khác nhau thì sẽ có những tiêu chuẩn khác nhau phù hợp với ngân hàng mình. Thông thường để đánh giá chất lượng tín dụng dựa trên một số tiêu chí như sau:
+ Ngân hàng tài trợ trên phương án hoặc dự án có hiệu quả.
+ Vốn vay có đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn của khách hàng hay không
Từ các tiêu chí đó ta có các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng sau
Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và hoặc lãi đã quá hạn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3362.doc.doc