Sau khi Việt Nam ra nhập WTO, việc mở rộng thị trường tài chính ngân hàng ngày càng được mở rộng, các ngân hàng trong nước, các ngân hàng trên thế giới và các tổ chức phi ngân hàng được tạo điều kiện để thành lập tại Việt Nam. Xu hướng này đặt các ngân hàng trước một áp lực cạnh tranh gay gắt hơn. Một trong các biện pháp cần thiết để các ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường sức cạnh tranh là đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ.
Trong thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm, tôi nhận thấy tại NHNo&PTNT Hà Nội nói chung và tại phòng giao dịch chợ Hôm nói riêng các loại hình dịch vụ đóng góp một phần doanh thu khá lớn, đặc biệt là hoạt động bão lãnh. Tuy nhiên, so với nhiều hoạt động khác tại ngân hàng thì hoạt động bão lãnh còn chưa được quan tâm đúng mức và còn nhiều mặt hạn chế. Trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế, các giao dịch kinh tế trong và ngoài nước ngày càng được mở rộng. Đi cùng với mỗi một hợp đồng kinh tế luôn tồn tại các rủi ro trong đó có rủi ro thực hiện hợp đồng. Vì vậy, hơn lúc nào hết hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm cần được phải được nâng cao chất lượng để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mà còn hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế nói chung.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm” làm đề tài cho chuyên đề thực tập.
Trên cơ sở phân tích lý thuyết và đánh giá thực trạng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm, mục đích cuối cùng của đề tài là đưa ra các giải pháp để nâng cao dịch vụ bảo lãnh đối tại ngân hàng.
Chuyên đề của tôi được gồm ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bão lãnh ngân hàng
- Chương 2: Thực trạng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm.
63 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động bão lãnh tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội- Phòng giao dịch chợ Hôm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi Việt Nam ra nhập WTO, việc mở rộng thị trường tài chính ngân hàng ngày càng được mở rộng, các ngân hàng trong nước, các ngân hàng trên thế giới và các tổ chức phi ngân hàng được tạo điều kiện để thành lập tại Việt Nam. Xu hướng này đặt các ngân hàng trước một áp lực cạnh tranh gay gắt hơn. Một trong các biện pháp cần thiết để các ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường sức cạnh tranh là đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ.
Trong thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm, tôi nhận thấy tại NHNo&PTNT Hà Nội nói chung và tại phòng giao dịch chợ Hôm nói riêng các loại hình dịch vụ đóng góp một phần doanh thu khá lớn, đặc biệt là hoạt động bão lãnh. Tuy nhiên, so với nhiều hoạt động khác tại ngân hàng thì hoạt động bão lãnh còn chưa được quan tâm đúng mức và còn nhiều mặt hạn chế. Trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế, các giao dịch kinh tế trong và ngoài nước ngày càng được mở rộng. Đi cùng với mỗi một hợp đồng kinh tế luôn tồn tại các rủi ro trong đó có rủi ro thực hiện hợp đồng. Vì vậy, hơn lúc nào hết hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm cần được phải được nâng cao chất lượng để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mà còn hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế nói chung.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm” làm đề tài cho chuyên đề thực tập.
Trên cơ sở phân tích lý thuyết và đánh giá thực trạng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm, mục đích cuối cùng của đề tài là đưa ra các giải pháp để nâng cao dịch vụ bảo lãnh đối tại ngân hàng.
Chuyên đề của tôi được gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bão lãnh ngân hàng
Chương 2: Thực trạng hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hoạt động bão lãnh tại Ngân hàng No&PTNT Hà Nội- phòng giao dịch chợ Hôm.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
Khái quát chung về bảo lãnh
Sự hình thành và phát triển chung của bảo lãnh
Bảo lãnh là một khái niệm xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người. Mặc dù không thể xác định chính xác thời gian ra đời của bảo lãnh cũng như xuất xứ của bão lãnh nhưng có thể khẳng định rằng bảo lãnh đã có từ thời trung cổ Hy Lạp với hình thức rất sơ khai bằng những giao dịch giữa cá nhân trong quan hệ thường.
Vào những năm 50, 60 của thế kỷ trước, công nghiệp dầu mỏ lớn mạnh làm gia tăng quan hệ giao dịch giữa các nước Trung Đông và Tây Âu. Những hợp đồng khai thác, mua bán dầu khí, khí đốt, xây dựng cơ sở hạ tầng có giá trị lớn đòi hỏi sự đảm bảo của ngân hàng trong tài trợ và thực hiện nghĩa vụ các bên. Đồng thời, nền mậu dịch phát triển trong những năm 70 giữa thế giới thứ 3 với khối các nước giàu như Tây Âu, Bắc Mỹ, Trung Đông… làm tăng thêm nhu cầu đa dạng hóa và hợp pháp hóa các công cụ tài trợ và đảm bảo quốc tế ngoài phương thức tín dụng chứng từ truyền thống. Các phải thể hiện tính linh hoạt, tiện lợi, phù hợp với tập quán quốc tế nhưng không trái với hệ thống pháp luật quốc gia.
Bão lãnh phát triển trong bối cảnh như vậy và đáp ứng được những yêu cầu đó. Đến nay, bảo lãnh ngày càng phát triển và trở thành một công cụ hữu hiệu đảm bảo thực thi nghĩa vụ, đặc biệt là nghĩa vụ tài chính trong các giao dịch quốc tế cũng như các giao dịch ở thị trường nội địa của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Theo luật Việt nam, điều 366 định nghĩa: “Bảo lãnh là người thứ 3 (gọi là người bảo lãnh) cam kết với người có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (thường là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Như vậy có thể thấy rằng bản chất của bảo lãnh là sự cam kết của người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh trong trường hợp người này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Trong mỗi giao dịch bão lãnh thường có ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Người bảo lãnh có thể là các doanh nghiệp, các cá nhân hay các tổ chức tài chính, tín dụng. Hiện nay, do uy tín của các và khả năng tài chính cũng như vai trò trong việc cung cấp các dịch vụ cho nền kinh tế, người bảo lãnh chủ yếu là các tổ chức tín dụng. Bão lãnh do các tổ chức tín dụng phát hành gọi là bảo lãnh ngân hàng.
Để điều chỉnh hoạt động bảo lãnh của các tổ chức tín dụng với khách hàng, trong quy chế “bảo lãnh ngân hàng” ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ- NHNN ngày 26/06/2006 của Thống đốc NHNN Việt Nam, bảo lãnh ngân hàng được định nghĩa: “ Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng( Bên bảo lãnh) với bên có quyền ( Bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng ( Bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay”.
Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
Cam kết bảo lãnh là sự thỏa thuận của ba bên:
Theo định nghĩa của bảo lãnh, giao dịch bảo lãnh ngân hàng thường có ba bên: Người được bảo lãnh, ngân hàng bảo lãnh (ngân hàng phát hành cam kết bảo lãnh) và người nhận bảo lãnh (người thụ hưởng) với ba mối quan hệ của ba hợp đồng:
Hợp đồng cơ sở: Quan hệ người được bảo lãnh- người nhận bảo lãnh.
Hợp đồng cung cấp dịch vụ hoặc tài trợ giữa khách hàng và ngân hàng: Quan hệ người được bảo lãnh- người nhận bảo lãnh (người phát hành bảo lãnh).
Cam kết bão lãnh của ngân hàng đối với khách hàng: Quan hệ người nhận bảo lãnh (người hưởng) - người phát hành bảo lãnh.
Ba mối quan hệ trên được hình thành theo trình tự: người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh ký hợp đồng cơ sở; người được bảo lãnh dựa trên hợp đồng cơ sở làm thủ tục và yêu cầu phát hành bảo lãnh, đề nghị ngân hàng phát hành cam kết bảo lãnh; ngân hàng sẽ xem xét các yếu tố đảm bảo thanh toán của doanh nghiệp, các yếu tố về nghiệp vụ kỹ thuật và nội dung yêu cầu trước khi phát hành cam kết bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh hưởng.
Khi cam kết bảo lãnh có hiệu lực có nghĩa là cả ba bên liên quan đã thỏa mãn với bảo lãnh ấy. Ngược lại, nếu có bất đồng về cam kết bảo lãnh thì ngân hàng không chấp nhận yêu cầu phát hành bảo lãnh của người được bảo lãnh hoặc người hưởng sẽ không yêu cầu sửa đổi cam kết bảo lãnh. Để tránh những trở ngại trong việc phát hành cam kết bảo lãnh, người nhận bảo lãnh cũng như người hưởng bảo lãnh cần quan tâm đến vai trò ngân hàng khi ký kết hợp đồng cơ sở.
b) Tính độc lập về quan hệ, tính quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
Sở dĩ bảo lãnh được coi là công cụ vạn năng sử dụng trong tất cả các giao dịch vì nó có đặc điểm nổi bật là tính độc lập về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Các hợp đồng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau. Hợp đồng thứ nhất là gốc để hợp đồng thứ hai và thứ ba hình thành, và các hợp đồng sau ra đời cũng nhằm phục vụ cho hợp đồng thứ nhất. Một hợp đồng sẽ không được thực hiện đầy đủ nếu các hợp đồng còn lại không có hiệu lực. Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ các bên trong hợp đồng này lại không ràng buộc hay phụ thuộc lẫn nhau.
Ngân hàng, người cung cấp dịch vụ và cam kết thanh toán có hai mối quan hệ với hai đối tượng khác nhau và phải hành động mang tính độc lập trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của từng hợp đồng: ngân hàng có nghĩa vụ thực hiện cam kết của mình khi bị người hưởng đòi tiền nếu người hưởng đã thỏa thuận đầy đủ những quy định của cam kết bảo lãnh cho dù ngưởi ủy nhiệm phá sản, mất khả năng thanh toán hay đang có tranh chấp giữa người được bảo lãnh và người hưởng. Sau đó ngân hàng có quyền đòi thanh toán từ người được bảo lãnh.
Người được bảo lãnh thực hiện nguyên tắc: “thanh toán trước, khiếu kiện sau” tức là họ có nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng bảo lãnh (trong trường hợp bị người bảo lãnh đòi tiền) và sau đó có quyền khiếu nại người hưởng bếu bị người hưởng lạm dụng.
Người hưởng có quyền đòi tiền ngân hàng bảo lãnh dựa vào các điều kiện của bảo lãnh nhưng họ cũng có nghĩa vụ trả lời khiếu nại của đối tác nếu có tranh chấp phát sinh trong mối quan hệ của hợp đồng cơ sở.
Tuy nhiên, mức độ độc lập của bảo lãnh chỉ là tương đối, nó phụ thuộc vào chính các điều khoản của cam kết bảo lãnh, đặc biệt là điều khoản quy định các chứng từ mà người hưởng phải xuất trình cho ngân hàng bảo lãnh khi đòi tiền. Nếu bảo lãnh quy định xuất trình chứng từ của phía thứ 3 như văn bản chứng thực của cơ quan độc lập về sự vi phạm của người được bảo lãnh, phán quyết của tòa án hay quyết định của trọng tài… thì tính độc lập của bảo lãnh sẽ giảm đi.
c) Giao dịch bằng chứng từ và trên cơ sở chứng từ
Trong giao dịch bảo lãnh, chứng từ cơ bản và không thể thiếu được mà người hưởng xuất trình để đòi tiền ngân hàng bảo lãnh là “yêu cầu trả tiền (Demand for payment)” và “tuyên bố vi phạm (Statement for default)”. Đây là bằng chứng để ngân hàng thực hiện nghĩa vụ trả tiền và yêu cầu người được bảo lãnh hoàn trả. Ngoài ra, với bảo lãnh có điều kiện còn có thể có các loại chứng từ khác như hối phiếu, hóa đơn, biên bản nghiệm thu… tùy theo từng giao dịch bảo lãnh cụ thể.
Có một số quan niệm cho rằng, đặc điểm này của bảo lãnh là không rõ ràng hoặc giao dịch bảo lãnh hoàn toàn không phải là giao dịch chứng từ vì biên bản đòi tiền chỉ là thủ tục, là văn bản cần thiết của người hưởng để thực hiện việc đòi tiền ngân hàng. Tuy nhiên, nếu xét rộng hơn thì bảo lãnh là một cam kết bằng văn bản, việc thực hiện quyền của người hưởng cũng bằng văn bản và ngân hàng đòi người được bảo lãnh hoàn trả cũng căn cứ vào văn bản. Ngân hàng mặc dù không kiểm tra nội dung chi tiết văn bản đòi tiền của người hưởng nhưng chỉ thanh toán khi bề mặt chứng từ do người hưởng xuất trình thỏa mãn những yêu cầu của bảo lãnh.
d) Ngân hàng là người đảm bảo trong bảo lãnh ngân hàng
Về nguyên tắc, bảo lãnh có thể được phát hành bởi bất cứ pháp nhân hay thể nhân nào. Tuy nhiên, những người nhận bảo lãnh hay người thụ hưởng bảo lãnh nhận thấy việc chấp nhận bảo lãnh được phát hành bởi các cá nhân hay các doanh nghiệp là vô cùng rủi ro do khó xác định được năng lực tài chính, năng lực pháp lý của người phát hành bảo lãnh, đặc biệt là trong giao dịch quốc tế. Trên thực tế, hầu hết các bảo lãnh là do các ngân hàng thương mại phát hành.
Chức năng của ngân hàng trong giao dịch bảo lãnh trước hết là tài trợ. Phát hành bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng nhằm đảm bảo sự chi trả phát sinh giữa các đối tác theo hợp đồng cơ sở. Ngân hàng coi việc phát hành bảo lãnh như một hình thức cấp tín dụng cho người được bảo lãnh và người được bảo lãnh phải có tài sản thế chấp cho khoản tín dụng này. Điều này tạo ra sự tin tưởng cao cho người thụ hưởng vào khả năng thanh toán của ngân hàng.
Ngân hàng còn là nơi cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Do vậy, ngân hàng phải có một bộ máy tổ chức tốt, phù hợp đảm bảo chất lượng dịch vụ về nhân sự, về kỹ thuật chuyên môn. Quan trọng hơn, các NHTM luôn phải đề cao uy tín của mình nên khả năng ngân hàng từ chối nghĩa vụ trả nợ theo bảo lãnh là rất thấp. Đây là ưu thế vượt trội của NHTM so với các doanh nghiệp.
Ngân hàng không phải là người trung gian hòa giải hoặc là người xem xét giao dịch thực tế của hợp đồng cơ sở. Ngân hàng chỉ làm dịch vụ theo yêu cầu của hai phía và thể hiện bằng những cam kết độc lập trong bảo lãnh.
e) Tính tương đối của cam kết vô điều kiện trong bảo lãnh độc lập
Bảo lãnh ngân hàng thường là bảo lãnh vô điều kiện. Trong thư bảo lãnh, ngân hàng phát hành cam kết thanh toán vô điều kiện khi nhận được thư đòi tiền và tuyên bố vi phạm của người hưởng và không thể viện dẫn bất kỳ lý do nào ngoài nội dung thư bảo lãnh để từ chối thanh toán trừ khi ngân hàng phát hiện được người hưởng lạm dụng, gian lận hay lừa đảo. Tuy nhiên, cam kết thanh toán vô điều kiện của ngân hàng chỉ là tương đối.
Trước hết, người hưởng chỉ được thanh toán vô điều kiện với điều kiện nếu họ thực hiện đúng các điều khiển trong bảo lãnh: xuất trình từ hoàn hảo, trong thời kỳ hiệu lực của bảo lãnh, số tiền không vượt giá trị bảo lãnh… Nếu không đáp ứng đúng các yêu cầu của bảo lãnh thì người hưởng không thể được thanh toán ngay cả khi thực tế người được bảo lãnh có vi phạm hợp đồng cơ sở.
Tính tương đối của cam kết vô điều kiện của ngân hàng phát hành bảo lãnh còn được thể hiện bằng sự can thiệp của Luật quốc gia. Bảo lãnh giao dịch trên thị trường quốc tế tuân thủ theo các điều luật, các thông lệ quốc tế của Phòng thương mại quốc tế, Liên hiệp quốc… nhưng khi phát sinh tranh chấp, Luật quốc gia của nước được dẫn đến kết quả xét xử khác nhau và làm ảnh hưởng đến bản chất của cam kết vô điều kiện trong bảo lãnh.
Vai trò của bảo lãnh ngân hàng
Đối với nền kinh tế
Sự tồn tại của bảo lãnh ngân hàng là một khách quan đối với nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu làm cho nền kinh tế ngày một phát triển. Đây chính là chất xúc tác làm điều hòa, xúc tiến hàng loạt các quan hệ trong hợp đồng kinh tế. Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể tin tưởng yên tâm tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế và có trách nhiệm với hợp đồng mà mình đã ký kết. Bảo lãnh ngân hàng đem lại lợi ích cho các bên tham gia và là công cụ thúc đẩy trao đổi buôn bán giữa các bên do đó có tác dụng thúc đẩy kinh tế.
Bảo lãnh ngân hàng có vai trò rất quan trọng với việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các chủ thể nền kinh tế. Các đơn vị kinh tế có thể dễ dàng tìm kiếm những nguồn vốn rẻ trong và ngoài nước khi có sự bảo lãnh của ngân hàng. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường mở, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Bảo lãnh ngân hàng tạo dựng uy tín của các Doanh nghiệp Việt Nam, giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị trường ra nước ngoài, tăng vị thế của hàng Việt Nam, đồng thời tạo được nguồn thu ngoại tệ, giúp cân bằng cán cân thanh toán, ổn định đồng tiền nội tệ.
Bảo lãnh ngân hàng cũng là một trong những giải pháp để phòng chống rủi ro có hiệu quả và được sử dụng phổ biến trong các hoạt động tín dụng, xây dựng và thương mại. Do đó với bảo lãnh ngân hàng, nền kinh tế có điều kiện để phát triển một cách ổn định và an toàn hơn.
Đối với ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cấp. Nhờ thế ngân hàng có khả năng mở rộng thêm khách hàng, một mặt là đáp ứng nhu cầu, gắn bó hơn với khách hàng truyền thống và một mặt là thu hút được các khách hàng mới.
Bảo lãnh đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng đó là phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận ngân hàng một khoản tiền không nhỏ, chiếm một tỷ trọng lớn trong lợi nhuận từ các loại hình dịch vụ, nhất là trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các chủ thể kinh tế ngày càng sử dụng nhiều hơn các hình thức của bảo lãnh ngân hàng.
Phí bảo lãnh được tính như sau:
Phí bảo lãnh = tỷ lệ phí(%) * số tiền bảo lãnh * Thời gian bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng còn góp phần hỗ trợ các hình thức thanh toán của ngân hàng như thanh toán quốc tế (Bảo lãnh hối phiếu, Bảo lãnh L/C trả chậm).
Đối với doanh nghiệp
Trong các quan hệ kinh tế không phải khi nào cũng có thể tin tưởng nhau do rất nhiều nguyên nhân, đặc biệt là đối với 2 khách hàng mới làm ăn với nhau hay do làm ăn chưa lâu dài. Vì thế, để đảm bảo quan hệ làm ăn và để giảm thiểu rủi ro, bên cung cấp thường yêu cầu bên đối tác phải có bảo lãnh ngân hàng thì mới thực hiện giao dịch. Do đó, bảo lãnh ngân hàng đôi khi là yêu cầu bắt buộc, là chìa khóa để doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với hợp đồng kinh doanh. Ngoài ra, bảo lãnh ngân hàng còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm được khoản vay vốn đáng kể, có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động và doanh nghiệp chỉ phải trả một khoản phí tương đối thấp.
Với bên hưởng bảo lãnh: Bảo lãnh ngân hàng giúp doanh nghiệp yên tâm hơn khi ký hợp đồng và thực hiện hợp đồng mà không tốn nhiều thời gian và chi phí. Giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội làm ăn ngay cả khi còn chưa tin tưởng vào đối tác lắm, nhờ đó mà tăng cường năng lực cạnh tranh. Giúp doanh nghiệp chọn được bạn hàng tốt nhất, giảm thiểu được rủi ro và khi có rủi ro xảy ra thì vẫn được bảo đảm bù đắp mọi thiệt hại, do đó sẽ không bị ảnh hưởng nhiều đến công việc kinh doanh.
Với bên được bảo lãnh: Bảo lãnh ngân hàng giúp doanh nghiệp có thể ký kết được hợp đồng làm ăn và nắm bắt được cơ hội tốt nhất ngay cả khi chưa xây dựng được lòng tin của đối tác. Bảo lãnh ngân hàng còn giúp doanh nghiệp nhận được nguồn tài trợ từ đối tác (đối với bảo lãnh tiền ứng trước) hoặc từ các tổ chức tín dụng khác (bảo lãnh cho vay vốn), lúc đó có thể giúp doanh nghiệp thực hiện hợp đồng, tham gia giao dịch và ký kết được hợp đồng.
Các hình thức của bảo lãnh ngân hàng
1.1.5.1 Phân loại bảo lãnh theo tính chất và điều kiện thanh toán
Bão lãnh vô điều kiện
Bão lãnh vô điều kiện là cam kết bão lãnh của ngân hàng bảo lãnh trả ngay một số tiền bồi thường cho người hưởng khi nhận được văn bản khiếu nại đầu tiên tuyên bố bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ được bảo lãnh trong trường hợp mà không kèm theo bất cứ một loại chứng từ chứng minh nào. Loại bảo lãnh này còn được gọi là bảo lãnh theo yêu cầu đầu tiên (Bank first demand guarantee) hay bảo lãnh độc lập (independent guarantee). Người được bảo lãnh trong loại bảo lãnh này luôn phải tuân thủ theo nguyên tắc: “trả tiền trước, khiếu nại sau”. Trường hợp người được bảo lãnh không vi phạm hợp đồng thì họ có quyền kiện người hưởng để đòi lại số tiền ngân hàng đã thanh toán cho người hưởng. Tuy nhiên, việc đòi thanh toán qua xét xử tạo tòa án lại mất thời gian và chi phí. Loại bảo lãnh này được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế.
Bảo lãnh có điều kiện
Là loại bảo lãnh mà ngân hàng bảo lãnh chỉ thực hiện việc thanh toán khi người thụ hưởng bảo lãnh xuất trình đầy đủ các giấy tờ theo yêu cầu của cam kết bảo lãnh chứng minh sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh hoặc phải có phán quyết của tòa án hay quyết định của trọng tài về việc vi phạm của người được bảo lãnh. Bảo lãnh này còn được gọi là bảo lãnh dự phòng (accessory guarantee), bảo lãnh có tính chất bảo hiểm (suretyship guarantee) hoặc bảo chứng (bond). Việc trả tiền trong bảo lãnh này gắn liền với những điều kiện chứng minh sự vi phạm của người được bảo lãnh do vậy đảm bảo được quyền lợi cho người được bảo lãnh những phức tạp và chậm trong việc đòi tiền nên người thụ hưởng ít chấp nhận.
Phân loại bảo lãnh theo mối quan hệ giao dịch
Bão lãnh trực tiếp
Sơ đồ 1.1 Bảo lãnh trực tiếp:
Ngân hàng
phát hành
(2) (3)
Người thụ hưởng
bảo lãnh
Người được
bảo lãnh
(1)
Hợp đồng chính được ký kết giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh
Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh
Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng (sau khi xét duyệt và chấp nhận)
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh mà ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh cam kết trực tiếp trả tiền cho người hưởng. Nếu phát sinh thanh toán, người hưởng lập chứng từ đòi tiền theo quy định và xuất trình cho ngân hàng bảo lãnh. (Việc thông báo thư bảo lãnh va xuất trình chứng từ đòi tiền có thể thông qua ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng phục vụ người hưởng- việc thông báo và làm dịch vụ đòi tiền không ảnh hưởng đến cam kết trực tiếp của ngân hàng bảo lãnh). Thông thường loại bảo lãnh này chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật nước nơi phát hành. Khi sử dụng bảo lãnh trực tiếp, ngân hàng phát hành dễ gặp rủi ro do khó kiểm tra tư cách pháp lý của người hưởng cũng như chứng từ đòi tiền. Người hưởng có thể gặp rủi ro trong việc đòi tiền do không xác định được năng lực tài chính của ngân hàng bảo lãnh và sự khác biệt về phát luật mỗi nước.
Bão lãnh gián tiếp
Sơ đồ 1.2 : Bảo lãnh gián tiếp
NH chỉ thị (NH thứ 1)
NH phát hành (NH thứ 2)
(3)
Người thụ hưởng bảo lãnh
Người được hưởng bảo lãnh
(4) (2)
(1)
Hợp đồng chính được ký kết giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh
Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân
hàng chính phát hành bảo lãnh.
Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ 2 phát hành bảo lãnh, đồng thời cam kết bồi hoàn bảo lãnh đối ứng.
Ngân hàng thứ 2 phát hành bảo lãnh: có thể chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh mà theo yêu cầu của người được bảo lãnh, ngân hàng trong nước ủy nhiệm cho một ngân hàng đại lý ở nước ngoài hưởng phát hành bảo lãnh với cam kết sẽ hoàn trả số tiền ngân hàng phát hành thanh toán cho người hưởng.
Trong loại hình này, ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh gửi chỉ thị gồm yêu cầu phát hành, cam kết thanh toán cùng nguyên văn thư bảo lãnh cho ngân hàng đại lý tại nước ngoài. Chỉ thị này gọi là bảo lãnh đối ứng (counter guarantee) hay bảo lãnh thứ yếu (secondary guarantee).
Ngân hàng phát hành bảo lãnh trực tiếp (bảo lãnh chính yếu- primary guarantee) cho người hưởng được gọi là ngân hàng phát hành. Người hưởng sẽ đòi tiền tại ngân hàng phát hành nếu người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. Sau đó ngân hàng phát hành sẽ đòi thanh toán từ ngân hàng yêu cầu bảo lãnh theo cam kết trong bảo lãnh đối ứng.
Bảo lãnh gián tiếp đảm bảo cho quyền lợi của người thụ hưởng do ngân hàng phát hành ở cùng nước người hưởng, giao dịch giữa các ngân hàng sẽ thuận tiện và nhanh chóng hơn. Người hưởng thường chọn bảo lãnh gián tiếp khi không tin tưởng khả năng tài chính của ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh, khi giao dịch với khách hàng mới hoặc đối tượng được bảo lãnh có giá trị lớn, có nhiều rủi ro.
Phân loại bảo lãnh theo đối tượng bảo lãnh
Bảo lãnh hoàn trả
Là cam kết sẽ thanh toán của ngân hàng bảo lãnh với bên cho vay hoặc bên ứng trước số tiền mà người đi vay hoặc người nhận ứng trước phải trả (số tiền đi vay và lãi phát sinh, số tiền ứng trước có hoặc không cộng thêm lãi) nếu người đi vay không trả nợ đầy đủ, đúng thời hạn hoặc người nhận ứng trước không giao hàng hoặc thực hiện hợp đồng.
Đối tượng được đảm bảo trong bảo lãnh hoàn trả là các hợp đồng tín dụng, hợp đồng tài trợ hoặc các thư tín dụng có điều khoản ứng trước. Loại bảo lãnh này được sử dụng khi khoản ứng trước hoặc cho vay bằng tiền. Bảo lãnh sẽ hết hạn sau khi người đi vay trả xong nợ/ người bán giao đủ hàng hoặc sau ngày đáo hạn trả nợ/ ngày giao hàng cuối cùng một thời gian đủ để người mua hoặc người cho vay lập thủ tục đòi tiền nếu người đi vay không trả nợ hoặc người bán không giao hàng.
Theo hợp đồng cơ sở, việc trả nợ hoặc giao hàng có thể được thực hiện làm nhiều lần, do vậy giá trị thư bảo lãnh sẽ tự động giảm thiểu tương ứng với từng lần trả nợ hay từng lần giao hàng và nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh sẽ kết thúc khi giá trị của bảo lãnh bằng 0.
Theo nhiều quan điểm, có thể phân loại chi tiết bảo lãnh hoàn trả thành bảo lãnh tín dụng (letter of guarantee for loan) và bảo lãnh tiền ứng trước (advance payment gurantee). Bảo lãnh tín dụng thường bảo lãnh cho toàn bộ giá trị hợp đồng tín dụng còn bảo lãnh tiền ứng trước thường bảo lãnh cho số tiền ứng trước bằng khoảng 5% đến 20% giá trị hợp đồng.
Bảo lãnh thanh toán
Là cam kết sẽ thanh toán của ngân hàng bảo lãnh với người bán mà người mua phải trả (tiền thi công công trình, tiền thuê máy móc, tiền bán hàng hóa…) nếu người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ.
Đối tượng trong bảo lãnh này là các hợp đồng xây dựng, hợp đồng thương mại. Đặc biệt nó thường được sử dụng khi các tổ chức, doanh nghiệp phát hành các loại chứng từ có giá như thương phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu… Sự đảm bảo mua lại các NHTM có uy tín sẽ khiến người mua yên tâm và tin tưởng hơn.
Ngoài yêu cầu đòi tiền và tuyên bố vi phạm như các bảo lãnh vô điều kiện khác, bảo lãnh thanh toán thường yêu cầu người hưởng phải xuất trình chứng từ chứng minh người bán đã giao hàng như hóa đơn thương mại (có hoặc không có xác thực của hải quan) hoặc biên bản nghiệm thu công trình nếu đối tượng bảo lãnh là hợp đồng xây dựng.
Bảo lãnh dự thầu
Là cam kết của ngân hàng phát hành sẽ thanh toán một số tiền nhất định cho chủ thầu khi người dự thầu có những vi phạm quy chế đấu thầu hoặc không ký hợp đồng hay không cung cấp bảo lãnh thực hiện hợp đồng khi trúng thầu. Giá trị bảo lãnh dự thầu thường bằng 1-5% giá trị gói thầu.
Mục đích của bảo lãnh đấu thầu nhằm đảm bảo người dự thầu tham gia dự thầu một cách nghiêm túc, không bỏ dở dự thầu, không sửa đổi hồ sơ trong thời gian dự thầu. Bảo lãnh dự thầu còn là hình thức đảm bảo với chủ thầu người bán sẽ thực hiện hợp đồng nếu trúng thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng sẽ được phát hành. Nhờ việc ràng buộc trách nhiệm người dự thầu khi dự thầu và trúng thầu, hình thức này giúp chủ thầu hạn chế những người dự thầu không nghiêm túc, không có khả năng thực hiện hợp đồng.
Nếu người dự thầu trúng thầu, thời hạn bảo lãnh dự thầu thường kết thúc khi hợp đồng được ký kết và bảo lãnh thực hiện hợp đồng có hiệu lực. Trường hợp người dự thầu không trúng thầu, cam kết bảo lãnh tự động hết hiệu lực và thường được quy định trả lại bản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3228.doc.doc