Đất nước ta hiện nay đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các hoạt động kinh tế đang ngày càng đa dạng, sôi động và đi kèm với nó là sự mở rộng của những giao dịch thương mại cả về hình thức cũng như về quy mô. Tuy nhiên, trong các giao dịch giữa các bên thường gặp khó khăn khi tìm hiểu thông tin về đối tác nên không thể có sự tin tưởng để thực hiện giao dịch, rủi ro do thông tin không cân xứng rất lớn. Nhưng điều này hoàn toàn có thể được khắc phục bằng cam kết bảo lãnh của ngân hàng. NH với uy tín của mình đứng ra cam kết cho bên thứ ba về việc khách hàng được bảo lãnh sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận. NH sẽ có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo lãnh cho bên thứ ba nếu khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết của mình.
Bảo lãnh ngân hàng không chỉ đáp ứng được nhu cầu giảm rủi ro cho các bên trong giao dịch kinh tế mà trên thực tế nó còn mang lại nhiều lợi ích cho NH thực hiện bảo lãnh. Các NH sẽ thu được phí bảo lãnh đồng thời lại quảng cáo được hình ảnh của NH ra bên ngoài. NH có chất lượng bảo lãnh tốt sẽ tăng được sự tin tưởng cho khách hàng của mình và thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng phát triển. Vì vậy, các NH rất mong muốn nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh của mình.
Qua một thời gian thực tập ở chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, em nhận thấy bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ được thực hiện khá phổ biến của chi nhánh. CN đã được rất nhiều khách hàng tín nhiệm và tìm đến khi có yêu cầu bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh của CN mang lại sự tin tưởng tuyệt đối cho đối tác và giúp các khách hàng nhanh chóng thực hiện được giao dịch. Cho đến nay chưa có một khách hàng nào được CN bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết của mình, điều đó càng làm tăng uy tín cho ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay các NHTM quốc doanh đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại cổ phần và các ngân hàng nước ngoài hùng mạnh. Trong hoàn cảnh đó, chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa thực sự vẫn chưa đạt tiêu chuẩn để giúp ngân hàng có thể cạnh tranh được với các đối thủ của mình.
Từ những hiểu biết, phân tích, đánh giá của mình, em đã quyết định chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp là: ”Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa” nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị để hoạt động bảo lãnh của chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa có được chất lượng cao hơn.
Chuyên đề được nghiên cứu theo những mục tiêu là tìm hiểu những lý luận chung về chất lượng bảo lãnh của NHTM; căn cứ vào lý luận chung để phân tích, đánh giá về thực trạng chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa và đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng bảo lãnh của CN trong thời gian tới.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
82 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Bảng ký hiệu viết tắt
CN : Chi nhánh
NH : Ngân hàng
NHCT : Ngân hàng Công thương
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN : Ngân hàng nhà nước
BL : Bảo lãnh
Lời mở đầu
Đất nước ta hiện nay đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các hoạt động kinh tế đang ngày càng đa dạng, sôi động và đi kèm với nó là sự mở rộng của những giao dịch thương mại cả về hình thức cũng như về quy mô. Tuy nhiên, trong các giao dịch giữa các bên thường gặp khó khăn khi tìm hiểu thông tin về đối tác nên không thể có sự tin tưởng để thực hiện giao dịch, rủi ro do thông tin không cân xứng rất lớn. Nhưng điều này hoàn toàn có thể được khắc phục bằng cam kết bảo lãnh của ngân hàng. NH với uy tín của mình đứng ra cam kết cho bên thứ ba về việc khách hàng được bảo lãnh sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận. NH sẽ có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo lãnh cho bên thứ ba nếu khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết của mình.
Bảo lãnh ngân hàng không chỉ đáp ứng được nhu cầu giảm rủi ro cho các bên trong giao dịch kinh tế mà trên thực tế nó còn mang lại nhiều lợi ích cho NH thực hiện bảo lãnh. Các NH sẽ thu được phí bảo lãnh đồng thời lại quảng cáo được hình ảnh của NH ra bên ngoài. NH có chất lượng bảo lãnh tốt sẽ tăng được sự tin tưởng cho khách hàng của mình và thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng phát triển. Vì vậy, các NH rất mong muốn nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh của mình.
Qua một thời gian thực tập ở chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, em nhận thấy bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ được thực hiện khá phổ biến của chi nhánh. CN đã được rất nhiều khách hàng tín nhiệm và tìm đến khi có yêu cầu bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh của CN mang lại sự tin tưởng tuyệt đối cho đối tác và giúp các khách hàng nhanh chóng thực hiện được giao dịch. Cho đến nay chưa có một khách hàng nào được CN bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết của mình, điều đó càng làm tăng uy tín cho ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay các NHTM quốc doanh đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại cổ phần và các ngân hàng nước ngoài hùng mạnh. Trong hoàn cảnh đó, chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa thực sự vẫn chưa đạt tiêu chuẩn để giúp ngân hàng có thể cạnh tranh được với các đối thủ của mình.
Từ những hiểu biết, phân tích, đánh giá của mình, em đã quyết định chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp là: ”Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa” nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị để hoạt động bảo lãnh của chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa có được chất lượng cao hơn.
Chuyên đề được nghiên cứu theo những mục tiêu là tìm hiểu những lý luận chung về chất lượng bảo lãnh của NHTM; căn cứ vào lý luận chung để phân tích, đánh giá về thực trạng chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa và đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng bảo lãnh của CN trong thời gian tới.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Chương 1: Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.1.Bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức ra đời và gắn liền với nền kinh tế hàng hóa. Đến hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, NH thực sự đã có điều kiện phát triển đến mức cao và phát huy được vai trò của mình, là động lực làm kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng trưởng vượt bậc. Nhưng nếu xem xét nguồn gốc hình thành NH, chúng ta thấy lúc đầu các NH chưa có được vị trí và vai trò của nó như bây giờ. Các NH đầu tiên trên thế giới xuất hiện từ trước công nguyên, ra đời do nhu cầu cần đổi tiền của các nhà buôn. NH giúp các nhà buôn đổi ngoại tệ lấy bản tệ và chiết khấu thương phiếu để có vốn kinh doanh. Nhiều nhà buôn thừa tiền có nhu cầu gửi tiền lại cho các NH để đảm bảo an toàn và phải trả cho NH một khoản phí lưu giữ. Trong quá trình gửi tiền và rút tiền đó, những người làm NH nhận thấy mình thường có dư tiền do nhu cầu gửi và rút không giống nhau. Ngược lại, những nhà buôn thiếu tiền buôn bán tạm thời lại có nhu cầu vay tiền ngân hàng. Do tiền không có tính ghi danh nên các NH đã nghĩ ra cách lấy số tiền dư đó đi cho vay để hưởng lãi. Sau này, khi hoạt động cho vay phát triển, các NH cần huy động nhiều tiền gửi nên đã bỏ khoản phí giữ tiền, và trả lãi cho các khoản tiền gửi để khuyến khích mọi người gửi tiền vào NH. Từ đó, NH thu hút tiền gửi và cho vay ra đời. Sự phát triển của thương mại thế giới đã kéo theo sự ra đời các phương thức thanh toán và tín dụng mới.
Đến thế kỷ XVIII hệ thống NH đã nhanh chóng phát triển thêm nhiều nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao như nghiệp vụ phát hành kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, thanh toán bù trừ, chuyển ngân, phát hành và thanh toán séc,…. Tuy nhiên, trong giai đoạn này lại xảy ra khủng hoảng tiền tệ khi các NH phát hành tiền giấy tràn lan. Do các chứng chỉ tiền gửi của NH có thể thay vàng làm phương tiện thanh toán trong lưu thông. Các NH thấy được vị trí đó nên đã tận dụng triệt để, gây ra sự hỗn loạn trong nền kinh tế do tiền giấy tràn lan mất kiểm soát.
Đến thế kỷ XX, hệ thống NH từ một cấp đã chuyển sang hệ thống hai cấp, có ngân hàng trung ương làm nhiệm vụ quản lý, kiểm soát hệ thống NHTM. Chỉ có ngân hàng trung ương mới được phát hành tiền giấy. Chức năng phát hành tiền được tách riêng khỏi các NHTM, các NHTM trở thành một tổ chức trung gian tài chính đơn thuần. Hiện nay, NHTM đã phát triển rất nhiều nghiệp vụ NH hiện đại như ủy thác, bảo lãnh, đầu tư,…
Các NHTM đã trải qua quá trình phát triển lâu dài với nhiều sự thay đổi cả về bản chất và hình thức, vì vậy rất khó để định nghĩa một cách toàn diện và chính xác ngân hàng là gì. Dưới đây là hai trong rất nhiều các định nghĩa về NHTM đã được nêu ra, mỗi định nghĩa được tiếp cận trên một khía cạnh riêng của NHTM.
Trong nền kinh tế tư bản, các nhà tài chính thường định nghĩa NHTM trên phương diện các dịch vụ NHTM cung cấp. Theo đó, “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”
Ở Việt Nam, NHTM được định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu:”Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán.” (Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Như vậy, ở Việt Nam ngân hàng được hiểu theo nghĩa là một ngân hàng cổ điển với chức năng chủ yếu là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và trung gian thanh toán.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng đang ngày càng “lấn sân” sang lĩnh vực của các NHTM và trở nên giống với NHTM hơn. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể phân biệt NHTM với các tổ chức tài chính khác ở chỗ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền gửi, đặc biệt được huy động tiền gửi ngắn hạn và không kỳ hạn, còn các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác chỉ được phép huy động tiền gửi dài hạn.
1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn
Vốn là yếu tố sống còn của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ vay, tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu vốn khác nhau và phương thức huy động vốn cũng khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường nợ vay không chiếm phần lớn, phương thức huy động nợ vay chủ yếu là vay ngân hàng và phát hành trái phiếu. Nhưng NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, với hoạt động chủ yếu là huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội rồi đem số vốn này đi kinh doanh qua các hình thức cho vay, đầu tư,…, nên có những đặc trưng riêng về vốn và phương thức huy động vốn.
Nguồn vốn của NHTM được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn nợ:
Vốn chủ sở hữu: là vốn của chủ ngân hàng. Vốn chủ sở hữu có thể được sử dụng lâu dài nên là nguồn hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu được phân loại như sau:
- Nguồn vốn hình thành ban đầu: Mỗi loại hình NHTM sẽ có nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. NHTM thuộc sở hữu nhà nước có vốn ban đầu là vốn nhà nước. NHTM cổ phần có vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp thông qua đóng cổ phần. NHTM liên doanh có vốn ban đầu do các bên liên doanh đóng góp.
- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động, vốn của chủ có thể được gia tăng từ nhiều nguồn khác nhau như nguồn từ lợi nhuận giữ lại hoặc nguồn từ phát hành thêm cổ phiếu.
- Các quỹ:
Hàng năm, các ngân hàng phải trích lập rất nhiều quỹ khác nhau từ thu nhập của mình. Các quỹ này sẽ được tích lũy qua các năm và có mục đích bù đắp những tổn thất có thể xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát, quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và phần chênh lệch thị giá – mệnh giá của cổ phiếu khi phát hành mới. Ngoài ra còn có các quỹ thông thường như quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,…
Vốn nợ: là loại vốn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn của các NHTM. Vốn nợ được chia thành những loại sau:
- Tiền gửi của khách hàng:
Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của các NHTM. Các NHTM khi bắt đầu hoạt động đều thực hiện nghiệp vụ đầu tiên là mở tài khoản tiền gửi cho các khách hàng để huy động tiền nhàn rỗi của các doanh nghiệp và dân cư. Tiền gửi là nguồn vốn luôn chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quyết định trong hoạt động của NHTM. Vì vậy, các NHTM luôn cạnh tranh với nhau bằng cách tăng lãi suất, bổ sung các dịch vụ kèm theo, khuyến mãi trong dịch vụ gửi tiền để gia tăng doanh số cũng như chất lượng tiền gửi của mình. Tiền gửi của khách hàng có thể được NH huy động dưới nhiều hình thức là: tiền gửi thanh toán; tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp; các tổ chức khác; tiền gửi tiết kiệm của dân cư; tiền gửi của các NH khác.
- Tiền vay:
Do ngân hàng trung ương có quy định giới hạn mức huy động tiền gửi của các NHTM theo tỷ lệ tương ứng với vốn chủ sở hữu để đảm bảo an toàn cho người gửi tiền. Vì vậy, khi cần, các NHTM có thể vay mượn từ ngân hàng trung ương, từ các tổ chức tín dụng hoặc vay trên thị trường vốn để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Trong các cách huy động này thì vay từ các tổ chức tín dụng khác là đơn giản nhưng lãi suất cao. Khi NHTM thiếu hụt dự trữ hoặc giải quyết nhu cầu cấp bách trong thanh toán thì giải pháp tốt nhất là vay ngân hàng trung ương với hình thức cho vay là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn. Hình thức vay trên thị trường vốn thường là các khoản vay không có đảm bảo như phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu). Tuy nhiên, khả năng vay phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính và uy tín của NH nên không phải tất cả các NH đều có thể dễ dàng huy động nguồn vốn này.
- Vốn nợ khác: bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác có thể là thuế chưa nộp, lương chưa trả,…
Hoạt động cho vay, đầu tư
Hoạt động cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính cho NH vì vậy các NHTM hiện nay đang rất chú trọng đến việc đa dạng hóa các hình thức cho vay nhằm đáp ứng các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
Hoạt động cho vay có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau:
Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
- Chiết khấu thương phiếu:
Thương phiếu là giấy nhận nợ của người mua đối với người bán, được hình thành từ quan hệ mua bán chịu giữa người mua và người bán. Khi sở hữu thương phiếu, người bán có thể chờ đến hạn đòi tiền người mua hoặc mang đến NH xin chiết khấu trước hạn. Số tiền NH chiết khấu phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu và lệ phí chiết khấu của NH. Nghiệp vụ chiết khấu hoàn toàn dựa trên sự tín nhiệm của NH với những người ký tên trên thương phiếu.
- Cho vay: Nghiệp vụ cho vay được chia thành nhiều nghiệp vụ như thấu chi, cho vay từng lần, cho vay hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt và thường không có tài sản đảm bảo nhằm phục vụ cho các khách hàng có đặc điểm thu và chi không phù hợp về thời gian và quy mô. Thấu chi là nghiệp vụ cho vay NH cho phép người vay được chi vượt số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong một khoảng thời gian cho phép. Khách hàng thấu chi tài khoản tiền gửi tức là khách hàng đã vay NH và phải trả gốc, lãi như các khoản vay thông thường khác. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, NH sẽ thu gốc và lãi. Các khoản chi vượt quá hạn mức thấu chi sẽ phải chịu lãi suất phạt và khách hàng sẽ bị đình chỉ sử dụng dịch vụ này.
Cho vay từng lần là hình thức cho vay đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên NH, không đủ điều kiện để cấp hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn xin vay và trình NH phương án sử dụng vốn vay. NH sẽ phân tích khách hàng, thẩm định món vay để quyết định có cho vay hay không. Nếu cho vay NH sẽ cùng khách hàng ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô, lãi suất, thời hạn cho vay, phương thức giải ngân và thu nợ. Nghiệp vụ cho vay từng lần khá đơn giản và dễ quản lý do các món vay tách biệt, tiền cho vay phụ thuộc chủ yếu vào giá trị tài sản đảm bảo.
Cho vay hạn mức là nghiệp vụ tín dụng phục vụ cho các khách hàng có nhu cầu vay mượn thường xuyên trong kỳ, NH thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng trong một thời gian nhất định có thể là năm, quý, tháng. Hạn mức tín dụng do NH tính toán cho khách hàng vào một thời điểm có thể là đầu kỳ hoặc cuối kỳ, dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn, nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ có hạn mức, mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ hợp lệ chứng minh đã mua hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay, trả nhiều lần nhưng số dư nợ vay không được vượt quá hạn mức tín dụng. NH không ấn định thời hạn trả nợ, ngay khi khách hàng có thu nhập NH sẽ thu nợ. Tuy nhiên, trong nghiệp vụ này, các món vay không tách biệt nên NH khó kiểm soát và quản lý.
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa, đáp ứng nhu cầu vay của các doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày. NH sẽ cho doanh nghiệp vay để mua hàng và thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu kỳ, khách hàng phải làm đơn xin vay luân chuyển và cùng NH thỏa thuận về phương thức vay, hạn mức, các nguồn cung cấp và tiêu thụ hàng hóa. Khi vay, khách hàng gửi NH chứng từ chứng minh mua hàng và yêu cầu vay, NH sẽ cho vay và thanh toán luôn cho người bán.
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng NH cho phép khách hàng trả gốc và lãi làm nhiều lần theo thời hạn đã thỏa thuận. Vì vậy, cho vay trả góp thường được sử dụng trong trường hợp các khoản vay trung và dài hạn để tài trợ cho tài sản cố định của các doanh nghiệp, hoặc trong trường hợp cho vay tiêu dùng. Cho vay trả góp có rủi ro cao do tài sản thế chấp thường chính là hàng hóa mua trả góp, thời hạn dài nên lãi suất thường cao nhất trong các hình thức cho vay.
Cho vay gián tiếp là hình thức NH thông qua các tổ chức trung gian cho vay các khách hàng. Khách hàng của hoạt động này có đặc điểm món vay nhỏ, người vay phân tán, NH tìm đến các trung gian để tiết kiệm chi phí cho vay như chi phí giám sát, quản lý, thu nợ, …
- Cho thuê
Trong trường hợp khách hàng không muốn mua tài sản hoặc không đủ điều kiện mua tài sản, NH sẽ mua tài sản đó và cho khách hàng thuê lại. Cho thuê có hai hình thức là cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính. Cho thuê hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn, sau khi chấm dứt hợp đồng NH sẽ thu hồi tài sản để cho thuê tiếp hoặc bán đi. Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài, thông thường số tiền thuê phải vượt quá 2/3 giá trị tài sản, sau khi hết hợp đồng thuê, người thuê có quyền mua lại tài sản đó. Hoạt động cho thuê của NHTM chủ yếu là cho thuê tài chính.
- Bảo lãnh
Bảo lãnh là cam kết của NH về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của NH khi khách hàng không thưc hiện nghĩa vụ như cam kết với bên thứ ba.
Phân loại theo thời gian
- Cho vay ngắn hạn (thời hạn vay dưới 1 năm)
Hình thức cho vay ngắn hạn chủ yếu là cho vay nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc các nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn khác của khách hàng.
- Cho vay trung và dài hạn (thời hạn vay trên 1 năm)
Hình thức cho vay trung và dài hạn nhằm phục vụ cho nhu cầu mua sắm trang thiết bị, nhà xưởng của doanh nghiệp; nhu cầu đầu tư phát triển của nhà nước; nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền của dân cư.
NH có thể cho vay trung và dài hạn qua các phương thức mua trái phiếu doanh nghiệp, chính phủ; cho vay theo các dự án hoặc cho vay đối với người tiêu dùng.
Hoạt động trung gian khác
Ngoài hoạt động huy động vốn, cho vay và đầu tư, các NHTM cũng ngày càng thực hiện nhiều hoạt động trung gian để tăng thu nhập cho NH. Các hoạt động trung gian bao gồm: các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng như ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu; đổi tiền; chuyển tiền; kinh doanh ngoại tệ; ngân hàng đại lý và ủy thác;… Cùng với sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật, các hoạt động trung gian của NHTM ngày càng đa dạng, hiện đại và mang lại thu nhập cao cho NH.
1.1.2. Bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh ngân hàng là hoạt động còn khá mới mẻ, xuất hiện từ giữa thế kỷ XX và phát triển trên thế giới trong thời gian gần đây. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, nghiệp vụ bảo lãnh đầu tiên đã được thực hiện ở Mỹ. Đến đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế, xuất phát từ yêu cầu của các nước trong khu vực Trung Đông. Do có nguồn dầu mỏ dồi dào các nước ở khu vực Trung Đông đã giàu lên nhanh chóng, từ đó nảy sinh nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, củng cố an ninh, quốc phòng.... Các quốc gia Trung Đông đã ký kết hợp đồng kinh tế với các nước phương Tây để triển khai và xây dựng công trình cơ sở hạ tầng cho họ. Những hợp đồng kinh tế này có giá trị rất lớn và nhiều rủi ro cho các nước chủ nhà. Để đảm bảo an toàn, họ đã đưa ra yêu cầu phải có sự đảm bảo vững chắc trong việc thực hiện các hợp đồng của các nước phương Tây thông qua hình thức bảo lãnh của NH. Đó là nghiệp vụ bảo lãnh thực hiện hợp đồng đầu tiên trên thế giới. Ngày nay, bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một nghiệp vụ phổ biến với doanh số gia tăng một cách đáng kinh ngạc ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong giao dịch quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được thực hiện theo qui ước thống nhất do phòng thương mại quốc tế ICC ban hành.
Khái niệm
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của NH dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của NH khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Khách hàng sẽ bị ghi nợ bắt buộc và bị tính lãi trên số tiền đó như một khoản vay thông thường.
Bên bảo lãnh (bên phát hành bảo lãnh) là các tổ chức tín dụng gồm các NHTM và các tổ chức tín dụng khác hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng. Bên bảo lãnh có trách nhiệm thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi khách hàng được bảo lãnh của mình không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng đã ký với bên nhận bảo lãnh.
Bên được bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài hợp pháp. Bên được bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết theo hợp đồng cơ sở được ký kết với bên thụ hưởng bảo lãnh. NH không được bảo lãnh đối với những người sau:
Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của ngân hàng.
Cán bộ, nhân viên của chính ngân hàng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định bảo lãnh.
Bên nhận bảo lãnh (bên thụ hưởng bảo lãnh) là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Bên nhận bảo lãnh sẽ có quyền yêu cầu NH đứng ra thanh toán số tiền bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết.
Đặc điểm của bảo lãnh
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của NH cho khách hàng thông qua uy tín của NH, trong đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
BL là một hoạt động phái sinh bởi vì quan hệ bảo lãnh phát sinh từ quan hệ của bên nhận bảo lãnh với bên được bảo lãnh. BL thường có 3 bên đó là bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh.
Sơ đồ mối quan hệ giữa các bên trong bảo lãnh
Ngân hàng
(2)
Hợp đồng bảo lãnh Thư bảo lãnh
(3)
Người yêu cầu bảo lãnh
Người thụ hưởng bảo lãnh
(1)
Hợp đồng kinh tế
Bảo lãnh là hoạt động tài trợ ngoài bảng cân đối kế toán. Nó được xếp vào loại tài sản ngoại bảng của NH vì NH chưa phải xuất quỹ cho khách hàng sử dụng khi cam kết bảo lãnh. Khi đáo hạn, khách hàng không có khả năng thanh toán NH mới xuất tiền để thanh toán hộ và ghi nợ bắt buộc cho khách hàng. Hơn nữa, người thụ hưởng chỉ có quyền đòi hoàn trả từ phía người phát hành thư bảo lãnh khi họ đáp ứng được đầy đủ các điều kiện ghi trong thư bảo lãnh
Nghiệp vụ bảo lãnh cũng thuộc loại nghiệp vụ tín dụng của NH vì bảo lãnh cũng có rủi ro như một khoản tín dụng. Khi cấp bảo lãnh NH cũng phải thẩm định giống như khi cấp một khoản tín dụng.
Bảo lãnh tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của NH chỉ phát sinh khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Tuy nhiên, NH sẽ phải bồi thường khi khách hàng của NH không thực hiện cam kết với bên thứ ba, có nghĩa là NH đã gánh chịu một phần rủi ro cho bên thứ ba.
1.1.2.2.Vai trò của bảo lãnh
Đối với nền kinh tế
Bảo lãnh ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh tiếp cận được với nguồn vốn phù hợp hay thực hiện giao dịch dễ dàng. Bảo lãnh vay vốn giúp những đơn vị thiếu vốn tiếp cận được với nguồn vốn phù hợp, chi phí thấp. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng giúp việc thi công các công trình lớn, quan trọng của đất nước nhanh chóng, hiệu quả hơn. Mỗi loại bảo lãnh đều có mục đích hỗ trợ hoạt động c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 512.doc