Cuộc khủng hoảng kinh tế cuối năm 2008, kéo dài sang năm 2009 đã gây ra những ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế vĩ mô nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ thấp, sức cầu giảm dẫn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước gặp rất nhiều khó khăn. Thêm vào đó hoạt động xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do thị trường quốc tế bị thu hẹp dẫn tới nguồn cung USD sụt giảm, gây tình trạng thiếu hụt USD trầm trọng của nền kinh tế.
Để đối phó với tình hình khủng hoảng kinh tế quốc tế, Chính phủ đã chủ động thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách kích cầu tiêu dùng, chính sách hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng. Thông qua ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đã góp phần vào việc cung ứng vốn cho nền kinh tế quốc gia, là cầu nối giữa các cá nhân, doanh nghiệp với thị trường và giúp điều tiết nền kinh tế vĩ mô một các hiệu quả. Không chỉ thế, hoạt động tín dụng còn có vai trò quan trọng đối với chính ngân hàng vì đây là hoạt động kinh doanh sinh lời chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này luôn tiềm ẩn rủi ro gây tổn thất rất lớn, thậm chí dẫn tới phá sản ngân hàng. Chính vì vậy mà chất lượng tín dụng luôn là vấn đề bất cứ ngân hàng nào cũng luôn quan tâm trong quá trình phát triển của mình để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro, tổn thất đó. Nhận thức được điều này, em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành”.
Để hoàn thành chuyên đề này, em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê, thu thập và phân tích số liệu dựa trên sách, báo, tài liệu và các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành với mục đích:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về tín dụng và công tác quản lý tín dụng trong các ngân hàng thương mại.
- Tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành, phân tích đánh giá hiệu quả công tác quản lý tín dụng thông qua chất lượng tín dụng tại chi nhánh.
- Qua những kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Hà Thành.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Những lý luận chung về tín dụng và quản lý tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Chương II: Thực trạng công tác quản lý hoạt động tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành
65 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng kinh tế cuối năm 2008, kéo dài sang năm 2009 đã gây ra những ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế vĩ mô nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ thấp, sức cầu giảm dẫn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước gặp rất nhiều khó khăn. Thêm vào đó hoạt động xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do thị trường quốc tế bị thu hẹp dẫn tới nguồn cung USD sụt giảm, gây tình trạng thiếu hụt USD trầm trọng của nền kinh tế.
Để đối phó với tình hình khủng hoảng kinh tế quốc tế, Chính phủ đã chủ động thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách kích cầu tiêu dùng, chính sách hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng. Thông qua ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đã góp phần vào việc cung ứng vốn cho nền kinh tế quốc gia, là cầu nối giữa các cá nhân, doanh nghiệp với thị trường và giúp điều tiết nền kinh tế vĩ mô một các hiệu quả. Không chỉ thế, hoạt động tín dụng còn có vai trò quan trọng đối với chính ngân hàng vì đây là hoạt động kinh doanh sinh lời chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này luôn tiềm ẩn rủi ro gây tổn thất rất lớn, thậm chí dẫn tới phá sản ngân hàng. Chính vì vậy mà chất lượng tín dụng luôn là vấn đề bất cứ ngân hàng nào cũng luôn quan tâm trong quá trình phát triển của mình để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro, tổn thất đó. Nhận thức được điều này, em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành”.
Để hoàn thành chuyên đề này, em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê, thu thập và phân tích số liệu dựa trên sách, báo, tài liệu và các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành với mục đích:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về tín dụng và công tác quản lý tín dụng trong các ngân hàng thương mại.
- Tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành, phân tích đánh giá hiệu quả công tác quản lý tín dụng thông qua chất lượng tín dụng tại chi nhánh.
- Qua những kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Hà Thành.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Những lý luận chung về tín dụng và quản lý tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Chương II: Thực trạng công tác quản lý hoạt động tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1 Tổng quan về tín dụng
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Danh từ “Tín dụng” (credit) xuất phát từ gốc La Tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng.
Theo quan điểm của C.Mac: “Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay trở lại người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn ban đầu”. Như vậy theo quan điểm này, tín dụng có ba nội dung chủ yếu là tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.
Do vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay thông qua sự vận động của giá trị được biểu hiện dưới hình thái giá trị hoặc hàng hóa.
Trên thực tế, người có nhu cầu vay và người có khả năng cho vay không phải lúc nào cũng trùng khớp về thời gian, về số lượng, về khoảng cách địa lý,… Chính vì thế, ngân hàng xuất hiện đóng vai trò cầu nối cho hai chủ thể trên, việc tập trung nguồn vốn và cho vay lại đó chính là tín dụng ngân hàng. Tóm lại, tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Tín dụng ngân hàng có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn
Thứ ba, tín dụng là sự hoàn trả cả lãi và gốc, sự chuyển nhượng một lượng giá trị chỉ mang tính chất tạm thời. Đây là thuộc tính riêng của tín dụng vì ngân hàng còn phải trả lãi cho người gửi tiền, trả lương cho nhân viên và các chi phí hoạt động khác, bên cạnh đó còn phải đảm bảo cho ngân hàng có một khoản lợi nhuận nhất định.
1.1.2 Vai trò của hoạt động tín dụng
a) Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế, thường xuyên có một số các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh có một bộ phận vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được tách ra khỏi quá trình tái sản xuất như: tiền khấu hao tài sản cố định nhưng chưa sử dụng, tiền mua nguyên vật liệu tiếp tục cho quá trình sản xuất nhưng chưa mua do sự chênh lệch về thời gian bán sản phẩm và mua nguyên vật liệu, tiền lương của người lao động nhưng chưa đến hạn trả; khoản tiền tích lũy để tái sản xuất mở rộng nhưng chưa đủ điều kiện để đầu tư. Các khoản tiền trên luôn được doanh nghiệp đầu tư kiếm lời. Ngoài ra, các khoản tiền của dân cư, khi chưa có nhu cầu sử dụng, họ cũng muốn đầu tư để kiếm lời. Tất cả tạo thành nguồn vốn tiềm tàng cho nền kinh tế.
Trong khi đó, có một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, để cải thiện sinh hoạt hoặc đối phó với những rủi ro trong cuộc sống. Như vậy, trong xã hội luôn có người thừa vốn cần đầu tư và người thiếu vốn muốn đi vay. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau để cho vay. Vì vậy tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa những người có vốn và người thiếu vốn.
- Tín dụng ngân hàng góp phần cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại các ngành kinh tế đối lập nhau. Một số ngành có điều kiện thuận lợi, lịch sử hình thành lâu đời nên có thế mạnh để phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Ngược lại, có những ngành vì nguyên nhân khác nhau mà kém phát triển hơn. Do đó, chính phủ phải có chiến lược cơ cấu lại để cân đối nền kinh tế. Để thực hiện điều đó thì cần có vốn và tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng điều đó. Tín dụng ngân hàng kết nối người thiếu vốn và người có vốn nhàn rỗi tạm thời. Theo đó, vốn tiền tệ được luân chuyển một cách liên tục, làm tăng thêm phần tích lũy tư bản cho ngân hàng và góp phần tăng trưởng kinh tế thông qua nguồn thu từ việc cấp tín dụng.
- Là một trung gian tài chính, ngân hàng thương mại là nơi tập trung, tích tụ vốn và phân bổ đầu tư có hiệu quả trong nền kinh tế.
Ngân hàng thực hiện hoạt động đầu tư cho nền kinh tế một cách gián tiếp qua hình thức cho vay. Trong khi thị trường chứng khoán, các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng như công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các quỹ đầu tư… là chủ đạo trong việc đưa vốn trung và dài hạn vào nền kinh tế, thì kênh dẫn vốn ngắn hạn lại phần lớn thuộc về vai trò của ngân hàng thương mại. Thị trường tiền tệ với trung gian tài chính ngân hàng thương mại luôn luôn là nơi cung cấp nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế.
Ngày nay, xu hướng quốc tế hóa, khu vực hóa nền kinh tế toàn cầu ngày càng đa dạng và phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Giao lưu kinh tế quốc tế là một nhân tố bên ngoài đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế các nước, nhất là các nước đang phát triển. Xuất nhập khẩu vốn và hàng hóa, dịch vụ là những lĩnh vực hợp tác quốc tế quan trọng và thông dụng. Tín dụng ngân hàng là công cụ đắc lực cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu thâm nhập vào thị trường quốc tế.
b) Đối với các doanh nghiệp
- Tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung vốn (bao gồm vốn lưu động và vốn cố định) hỗ trợ tạm thời cho các doanh nghiệp tiếp tục trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Cho vay là nguồn bổ sung tạm thời cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn tạm thời, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nhiều tình huống thì đi vay ngân hàng là giải pháp hiệu quả nhất, ít chi phí nhất cho doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp vẫn chủ động nắm bắt các thời cơ kinh tế và tận dụng nó cho phát triển sản xuất kinh doanh.
- Thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn có nhu cầu về vốn để trả lương cho công nhân viên, thu mua nguyên vật liệu,… Ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp tiếp tục sản xuất kinh doanh với điều kiện phải hoàn trả đủ cả gốc và lãi khi đến hạn, thực hiện đúng các cam kết ghi trong hợp đồng. Điều này tạo áp lực buộc các doanh nghiệp khi vay vốn buộc phải kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo thu được lợi nhuận để có khả năng thanh toán cho ngân hàng cũng như có thể cạnh tranh trên thị trường.
c) Đối với ngân hàng
Tín dụng là hoạt động đặc trưng, mang lại lợi nhuận và khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Doanh thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng.
1.1.3 Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại:
a) Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng)
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm
- Tín dụng dài hạn: trên 5 năm
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về.
b) Phân loại theo hình thức
Bao gồm: chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một phần thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản tiền lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là một hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, song thực tế đây là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khach hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
c) Phân loại theo tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có đựoc nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Tín dụng có thể được chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Cam kết bảo đảm là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay; các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo; các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng… cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu khách hàng và ngân hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, dánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba…), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
d) Phân loại tín dụng theo rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần phải nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
- Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
- Tín dụng có vấn đề:
Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ sản phẩm, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi:
Đây là các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
e) Phân loại khác
Ngoài các cách phân loại như trên, người ta còn có thể phân loại tín dụng theo một số tiêu thức khác như: theo ngành kinh tế, theo đối tượng tín dụng hoặc theo mục đích.
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hóa trong cấp tín dụng cua ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Bên cạnh đó, các cách phân loại như trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp
1.2 Quản lý tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về quản lý và quản lý tín dụng ngân hàng thương mại
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về quản lý nhưng nhìn chung có thể hiểu: quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được nững mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường.
Như vậy, quản lý tín dụng là sự tác động của chủ thể quản lý vào hoạt động tín dụng cho khách hàng vay nhằm giúp khách hàng tiếp tục các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và vào các mục tiêu khác.
1.2.2 Đặc điểm của quản lý tín dụng
- Một hệ tồn tại của quản lý bao gồm hai phân hệ: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng quản lý đi đến mục tiêu. Chủ thể có thể là một người, một bộ máy quản lý gồm nhiều người, nhiều thiết bị. Đối tượng quản lý tiếp nhận tác động của chủ thể quản lý. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng thì chủ thể quản lý ở đây là các cán bộ tín dụng, còn đối tượng quản lý là các hình thức tín dụng.
- Quản lý tín dụng là một quá trình thông tin, các cán bộ tín dụng luôn phải thu thập thông tin về môi trường, về hệ thống, tiến hành chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, truyền tin và đưa ra các quyết định nhằm tác động lên các hình thức tín dụng, xử lý các tình huống nhằm đem lại cho khách hàng những dịch vụ tín dụng tối ưu nhất, đa dạng nhất, đồng thời cũng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng cùng với việc tín dụng luôn được bảo đảm an toàn.
- Phải xác định tập hợp mục đích thống nhất cho cả chủ thể và đối tượng quản lý. Đạt kết quả tốt nhất trong điều kiện môi trường luôn biến động và nguồn lực hạn chế luôn là mục tiêu của quản lý. Đó cũng là căn cứ quan trọng nhất để chủ thể quản lý tiến hành các dạng quản lý. Hoạt động kinh doanh ngân hàng chủ yếu vì lợi nhuận, vì vậy mục tiêu của quản lý tín dụng là sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho ngân hàng với chi phí thấp nhất.
- Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi. Đứng trước những thay đổi của đối tượng quản lý cũng như môi trường cả về quy mô và mức độ phức tạp, chủ thể quản lý không chịu từ bỏ mà vẫn tiếp tục quản lý có hiệu quả thông qua việc điều chỉnh, đổi mới cơ cấu, phương pháp, công cụ và hoạt động của mình.
1.2.3 Vai trò của quản lý tín dụng ngân hàng
Ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục tiêu sinh lời. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Như vậy, vai trò của quản lý tín dụng là nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn, sinh lợi cho ngân hàng.
1.2.4 Nội dung công tác quản lý tín dụng ngân hàng
a) Tham mưu đề xuất chính sách, biện pháp phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng:
- Phổ biến các văn bản chỉ đạo, quy chế, quy trình, chính sách tín dụng, chính sách khách hàng do ngân hàng ban hành
- Xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác tín dụng phù hợp với điều kiện của ngân hàng. Xây dựng chương trình, biện pháp phát triển tín dụng và nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn, hiệu quả tín dụng.
- Xác định các chỉ số liên quan đến kế hoạch tín dụng (giới hạn, cơ cấu, hiệu quả, mức sinh lời…) trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
b) Quản lý, giám sát, phân tích, đánh giá rủi ro tiềm ẩn đối với danh mục tín dụng của ngân hàng; duy trì và áp dụng hệ thống đánh giá, xếp hạng tín dụng vào việc quản lý danh mục.
c) Nghiên cứu, đề xuất trình lãnh đạo phê duyệt hạn mức, điều chỉnh hạn mức, cơ cấu, giới hạn tín dụng cho từng ngành, từng nhóm và từng khách hàng.
d) Đề xuất kế hoạch giảm nợ xấu và phương án cơ cấu lại các khoản vay nợ của khách hàng theo quy định.
e) Giám sát việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro
f) Thu thập, quản lý thông tin về tín dụng, thực hiện báo cáo công tác tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân hàng; lập báo cáo phân tích thực trạng đảm bảo nợ vay của ngân hàng.
g) Thực hiện việc xử lý nợ xấu:
- Đề xuất phương án xử lý và trực tiếp xử lý các khoản nợ xấu
- Đề xuất các phương án thu hồi xử lý nợ xấu, nợ ngoại bảng (xử lý tài sản , xóa nợ, bán nợ, chuyển thành vốn góp…)
- Quản lý, lưu trữ các khoản nợ xấu đã được xử lý, quản lý danh mục các khoản nợ rủi ro ngoại bảng, hoặc đã được bán nợ, khoanh nợ…
1.2.5 Hiệu quả công tác quản lý tín dụng
Hiệu quả công tác quản lý tín dụng thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Có rất nhiều tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng nhưng để thuận tiện cho việc nghiên cứu cũng như đánh giá một cách toàn diện về tình hình hoạt động tín dụng ngân hàng, người ta thường xét trong mối quan hệ giữa hai mặt định tính và định lượng
1.2.5.1 Các chỉ tiêu định tính
Độ chính xác của việc đánh giá chất lượng tín dụng thông qua các chỉ tiêu định tính tùy thuộc vào trình độ phân tích và kinh nghiệm của người đánh giá.
Một số chỉ tiêu thông dụng và dễ đánh giá:
a) Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là chỉ tiêu quan trọng có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng tín dụng. Quy trình tín dụng bao gồm các bước và kỹ thuật cơ bản, cần thiết mà các cán bộ ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng phải tuân theo khi tiến hành hoạt động tín dụng. Về mặt hiệu quả, một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
b) Khả năng cạnh tranh
Khả năng cạnh tranh của một ngân hàng có liên quan rất lớn tới chất lượng tín dụng của ngân hàng vì ngân hàng có khả năng cạnh tranh cao hơn thì sẽ chiếm lĩnh được thị phần tốt hơn, có chất lượng tín dụng tốt hơn. Ngược lại, năng lực thị trường của ngân hàng thấp thì ngân hàng phải chấp nhận phần thị trường có rủi ro cao hơn.
c) Tính bền vững
Khi một khách hàng tin rằng ngân hàng đó có năng lực kinh doanh tốt thì họ sẽ tìm đến với ngân hàng đó. Điều này đặc biệt đúng với người gửi tiền vì họ cho rằng ngân hàng hoạt động lâu năm nên có nhiều kinh nghiệm hơn, khả năng kinh doanh tốt hơn. Việc huy động nguồn vốn đa dạng và phong phú sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng trong việc cho vay được linh hoạt hơn và từ đó chất lượng tín dụng của ngân hàng đó cũng tốt hơn.
1.2.5.2 Các chỉ tiêu định lượng
a) Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn
=
Nợ quá hạn
x
100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn cho ta biết trong một đồng dư nợ có bao nhiều đồng là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp. Ngân hàng cần có biện pháp kiểm tra, giám sát các khoản vay của mình thật chặt chẽ nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
Mục tiêu phấn đấu của ngân hàng thương mại là không để xảy ra nợ quá hạn. Tuy nhiên trong thực tế điều này rất khó thực hiện. Vì vậy khi đánh giá về chất lượng tín dụng cần phải xem xét đến chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn.
b) Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu
=
Nợ xấu
x
100
Tổng dư nợ
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam, các khoản nợ được chia thành 5 nhóm:
- Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn
- Nhóm 2: Nợ cần chú ý
- Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
- Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
- Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5. Tỷ lệ nợ xấu cho ta biết trong một đồng dư nợ có bao nhiêu đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Nợ xấu có độ rủi ro rất cao, khả năng thu hồi vốn là tương đối khó, khoản vốn của ngân hàng lúc này không còn là rủi ro nữa mà đã gây thiệt hại cho ngân hàng. Một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là rất thấp và lúc này cần phải xem xét lại toàn bộ hoạt động tín dụng của mình nếu không hậu quả khó lường trước được.
c) Tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi
=
Tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi
=
Nợ nhóm 5
Tổng dư nợ
Nợ không có khả năng thu hồi chính là nợ nhóm 5. Tỷ lệ này cho thấy trong tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng trong tổng dư nợ quá hạn của ngân hàng có bao nhiêu phần trăm có thể bị mất vốn. Tỷ lệ này càng cao chất lượng tín dụng càng thấp, nguy cơ ngân hàng không thu hồi được khoản tín dụng đã cấp càng lớn, tổn thất với ngân hàng càng cao.
d) Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng
=
Doanh số dư nợ
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của một ngân hàng. Vốn tín dụng quay được một vòng tức là tính từ thời điểm cấp tín dụng đến thời điểm thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn như trong hợp đồng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ khả năng quản lý vốn tín dụng cũng như chất lượng tín dụng của ngân hàng càng tốt.
e) Hiệu suất sử dụng vốn
Hiệu suất sử dụng vốn vay
=
Tổng dư nợ cho vay
x
100
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cho ta biết trong một đồng vốn huy động được thì bao nhiêu đồng được sử dụng trong cho vay. Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô, khả năng tận dụng nguồn vốn trong cho vay của các ngân hàng thương mại. Hiệu suất sử dụng càng cao thì hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả và ngược lại.
f) Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD
=
Số tiền trích lập quỹ dự phòng rủi ro
Tổng dư nợ
DPRR là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện được nghĩa vụ theo cam kết.
Tỷ lệ trích lập DPRR của ngân hàng càng cao hay số tiền trích lập quỹ DPRR càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ của ngân hàng chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp vì tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể chỉ tính dựa trên dư nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Nhóm nợ càng cao thì tỷ lệ dự phòng rủi ro được trích càng lớn. Một ngân hàng có dự phòng rủi ro càng cao thì chi phí hoạt động của ngân hàng này càng lớn, giảm khả năng sinh lời từ khoản dự phòng đã trích.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tín dụng ngân hàng
Hiệu quả của công tác quản lý tín dụng luôn chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Thông qua việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý tín dụng, ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp để hạn chế những tác động tiêu cực và phát huy những tác động tích cực, từ đó để ra phương hướng kinh doanh hợp lý làm giảm rủi ro và nâng cao lợi nhuận từ hoạt động tín dụng. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tín dụng được chia thành ba nhóm sau:
1.3.1 Nhân tố thuộc về phía khách hàng
- Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp:
Bất kỳ loại hàng hóa hay dịch vụ nào muốn tiêu thụ được thì cần phải có người mua. Tín dụng ngân hàng cũng vậy, ngân hàng không thể cho vay nếu như không có người vay. Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển luôn là cần thiết nhưng với từng ngân hàng thương mại thì không phải lúc nào cũng như vậy. Do số lượng doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng là có hạn và có những lúc nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp này không cao, chẳng hạn trong giai đoạn hoạt động kinh doanh gặp khó khăn các doanh nghiệp thường có xu hướng thu hẹp sản xuất. Trong trường hợp đó nhu cầu vốn c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3766.doc