Chuyên đề Một số giải pháp nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Vốn là một trong những nhân tố quyết định tới sự thành công hay thất bại của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là vốn trung và dài hạn.Theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư : Trong giai đoạn từ năm 2001-2005, để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 6%-7%/năm thì đòi hỏi lượng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 50-60 tỷ USD, trong đó vốn trung và dài hạn chiếm khoảng 40%-50% vốn đầu tư.

Trước tình hình đó, công tác huy động vốn trung và dài hạn là một vấn đề rất cần thiết. Trong khi Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hoàn thiện thì hệ thống Ngân hàng thương mại ( NHTM) Việt Nam vẫn giữ vai trò là một “kênh” huy động vốn trung và dài hạn đặc biệt quan trọng. Là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt được một số thành công đáng khích lệ trong công tác huy động vốn trung và dài hạn trong giai đoạn từ năm 1998 - 2000. Qua đó đã góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế đồng thời giữ vững vai trò là Ngân hàng chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Song kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước trong thời gian tới. Hơn nữa, để Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trở thành một Tập đoàn Tài chính- Tín dụng vững mạnh và hội nhập quốc tế trong tương lai thì việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng trong thời gian tới là rất cần thiết.

Vì các lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”.

Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường; nghiên cứu thực trạng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( 1998-2000). Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.

Bố cục: Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên để gồm 3 chương:

Chương I: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn trung và dài hạn tại NHTM.

Chương II: Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( Từ 1998-2000).

Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong thời gian tới.

 

doc67 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1119 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Vốn là một trong những nhân tố quyết định tới sự thành công hay thất bại của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là vốn trung và dài hạn.Theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư : Trong giai đoạn từ năm 2001-2005, để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 6%-7%/năm thì đòi hỏi lượng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 50-60 tỷ USD, trong đó vốn trung và dài hạn chiếm khoảng 40%-50% vốn đầu tư. Trước tình hình đó, công tác huy động vốn trung và dài hạn là một vấn đề rất cần thiết. Trong khi Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hoàn thiện thì hệ thống Ngân hàng thương mại ( NHTM) Việt Nam vẫn giữ vai trò là một “kênh” huy động vốn trung và dài hạn đặc biệt quan trọng. Là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt được một số thành công đáng khích lệ trong công tác huy động vốn trung và dài hạn trong giai đoạn từ năm 1998 - 2000. Qua đó đã góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế đồng thời giữ vững vai trò là Ngân hàng chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Song kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn so với nhu cầu vốn cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước trong thời gian tới. Hơn nữa, để Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trở thành một Tập đoàn Tài chính- Tín dụng vững mạnh và hội nhập quốc tế trong tương lai thì việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng trong thời gian tới là rất cần thiết. Vì các lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường; nghiên cứu thực trạng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( 1998-2000). Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị. Bố cục: Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên để gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn trung và dài hạn tại NHTM. Chương II: Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( Từ 1998-2000). Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong thời gian tới. Chương I Những vấn đề cơ bản về huy động vốn trung và dài hạn tại NHTM I- Hoạt động của Ngân hàng thương mại ( NHTM) 1- Khái niệm và đặc điểm của hoạt động NHTM 1.1- Khái niệm Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ đã được mở rộng thì trong nền kinh tế cũng đồng thời xuất hiện những người nắm giữ một khoản tiền tạm thời không dùng đến và những người cần tiền trong một khoảng thời gian nhất định để kinh doanh. Trước tình hình đó, vào nửa cuối thế kỷ 16 ở Châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi chuyển hoá thành. Lúc này hoạt động của Ngân hàng mới chỉ là nhận giữ hộ tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM cững từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng. ở Việt Nam, theo Luật các Tổ chức Tín dụng, nhà lập pháp định nghĩa rằng “ Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.2- Đặc điểm của hoạt động NHTM Căn cứ vào khái niệm trên thì hoạt động của NHTM có thể được nhận dạng thông qua một số đặc điểm sau: * Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm lời ( bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng). Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và chứng khoán để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng. * Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện, nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do pháp luật quy định ( vốn pháp định, phương án kinh doanh,...) thì mới được phép hoạt động trên thị trường. Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc, mang tính chất dây truyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải tiến hành huy động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế gới thường được điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. 2- Nội dung hoạt động của NHTM: Hoạt động và vai trò của NHTM không phải là bất biến, mà liên tục phát triển theo điều kiện kinh tế xã hội. Ngày nay, hoạt động của NHTM rất phong phú và đa dạng, tuỳ điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi quốc gia mà các nghiệp vụ kinh doanh của các NHTM có thể khác nhau về phạm vi và công nghệ. Nếu căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của NHTM thì hoạt động của NHTM bao gồm: Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản và Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản. Bảng tổng kết tài sản của NHTM Tài sản ( Tính lỏng giảm dần) Nguồn vốn - Dự trữ - Các chứng khoán - Cho vay - Tài sản khác - Tiền gửi - Tiền vay - Vốn của ngân hàng - Nguồn vốn khác 2.1- Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản: Bảng tổng kết tài sản của NHTM phản ánh ba lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản là: Huy động vốn, Sử dụng vốn và Nghiệp vụ môi giới trung gian. 2.1.1- Huy động vốn Đây là nghiệp vụ khởi đầu, tạo điều kiện cho mọi hoạt động của NHTM. Khi một NHTM cần vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì có thể huy động ở một số nguồn chính như : Nguồn từ chủ sở hữu, Nguồn tiền gửi, Nguồn vay mượn và một số nguồn khác. * Huy động từ chủ sở hữu: Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao, NHTM không phải hoàn lại. Nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động mở rộng quy mô của các NHTM ( liên doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới,...). Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát hành cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát của Ngân sách Nhà nước,... Nhìn chung việc huy động dưới hình thức nào là do tính chất sở hữu của NHTM quyết định. * Huy động từ tiền gửi: Nguồn vốn từ chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy phần lớn là NHTM phải huy động từ nguồn tiền gửi. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là NHTM chỉ được quyền sử dụng nó trong một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những người gửi tiền. Dựa vào tính khả dụng của vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình thức sau: -Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo mục đích khả dụng. Mục đích của khách là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng. NHTM có nhiệm vụ phải chi trả bất cứ lúc nào mà khách hàng yêu cầu. - Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự tham thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này ngân hàng có quyền chủ động sử dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước hạn phải được sự đồng ý của ngân hàng. - Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một bộ phận thu thập bằng tiền của các cá nhân tạm thời nhàn rỗi được gửi vào NHTM dưới nhiều hình thức: Tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà,... Với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và sinh lời. * Nguồn vay mượn: Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài,... Vốn đi vay thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên, nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường. * Huy động từ các nguồn khác: Ngoài một số nguồn cơ bản trên thì NHTM có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ,... uy tín của NHTM là cơ sở quan trọng để mở rộng nguồn vốn này. 2.1.2 Sử dụng vốn: Huy động được vốn nhàn rỗi, NHTM phải cân nhắc để hiệu quả hoá những nguồn vốn huy động được. Với mục tiêu chủ yếu là an toàn và sinh lời, hoạt động sử dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: Dự trữ, Cho vay và Đầu tư. * Dự trữ: Sự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn ( bằng tiền mặt) để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc vào qui mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi trả tiền mặt. Tiền dự trữ bao gồm: Dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư. Chúng được hình thành bởi các nguồn: Tiền mặt tại két của NHTM, Tiền gửi tại Ngân hàng trung ương, Tiền gửi ở các tổ chức tín dụng, Tiền đang trong quá trình thu. * Cho vay: Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Nguồn thu từ hoạt động cho vay thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy nhhiên, nó cũng là lĩnh vực có nhiều rủi ro và phức tạp nhất.Rủi ro tín dụng có thể do ý muốn chủ quan của ngân hàng như : Xây dựng chiến lược sai, Thẩm định hồ sơ không chính xác, Cho vay không tuân theo nguyên tắc,... cũng có thể do nguyên nhân khách quan như: Hoả hoạn, lũ lụt,... Hoạt động cho vay liên quan chặt chẽ với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ cho vay ngày càng đa dạng nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các hình thức cho vay chủ yếu như: Cho vay ngắn hạn, Cho vay trung và dài hạn, Cho vay có đảm bảo,... * Đầu tư: Hoạt động này bao gồm đầu tư chứng khoán và các hoạt động đầu tư khác: - Đầu tư chứng khoán: Nghiệp vụ này mang lại cho NHTM một khoản lợi nhuận tương đối lớn ( sau cho vay). Trong trường hợp chưa tìm ra khách hàng đáng tin cậy để cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải quyết vốn một cách hữu hiệu nhất cho NHTM. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro. Vì vậy NHTM cần phân tích kỹ lưỡng trước khi lựa chọn loại chứng khoán nào để đầu tư. - Ngoài ra, NHTM có thể đầu tư bhằm mục đích sinh lợi nhiều hình thức khác như góp vốn liên doanh, đầu tư vào trang thiết bị,... 2.1.3-Hoạt động môi giới trung gian Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện các hoạt động trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những khoản thu nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là các dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp NHTM phát triển toàn diện. ở các nước phát triển, các NHTM cạnh tranh với nhau bằng con đường “ phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển thể hiện xã hội công bằng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận của NHTM không chỉ ở đầu tư, cho vay, mà gần phần nửa ở các dịch vụ, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro. Nghiệp vụ trung gian của NHTM ra đa dạng và phong phú như : Dịch vụ chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác, Dịch vụ chuyển khoản, Dịch vụ khấu trừ tự động, Thu chi hộ,... Qua đó NHTM sẽ thu được một khoản phí dịch vụ. 2.2- Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản: Ngoài các giao dịch được phản ánh trong nội bảng ( huy động vốn, sử dụng vốn, môi giới trung gian), các NHTM còn tham gia vào hoạt động chưa được thừa nhận là tài sản nợ hoặc tài sản có. Các hoạt động này hiện đang được theo dõi ở các tài khoản ngoại bảng. Một số hoạt động ngoại bảng chủ yếu như: Bảo lãnh công nợ, các hợp đồng có liên quan đến lãi suất, các giao dịch về hối đoái như giao dịch Swaps, Options, Futrues, các chứng từ có giá,... Mặc dù sự biến động của các giao dịch ngoại bảng không làm thay đổi kết cấu, cân số của bảng tổng kết tài sản, nhưng vì nó cũng là một hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá tình kinh doanh nên độ rủi ro của nó cũng tác động mạnh mẽ đến độ an toàn của NHTM. Do đó, khi phân tích hoạt động của NHTM, bên cạnh việc nghiên cứu các hoạt động bảng tổng kết tài sản, các nhà quản trị cần phải quan tâm đến mức độ và diễn biến các hoạt động ngoại bảng vì độ rủi ro của các hoạt động này cũng làm ảnh hưởng không ít đến kết quả kinh doanh chung của NHTM. Tóm lại, hoạt động của NHTM luôn gắn liền với nền kinh tế, nền kinh tế càng phát triển cao, hoạt động của NHTM càng đa dạng và phong phú. Hơn nữa, các hoạt động của NHTM có mối quan hệ rất chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM. 3- Sự cần thiết của công tác huy động vốn trung và dài hạn qua NHTM ở Việt Nam hiện nay. 3.1- Nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế ( 2001-2005) ở Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, mục tiêu hàng đầu là thông qua quá tình CNH, HĐH đất nước để phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt được mục tiêu đó thì điều quan trọng nhất là phải có một nguồn vốn đủ mạnh cho đầu tư phát triển, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế không chỉ phụ thuộc vào lượng vốn mà quan trọng hơn là phải có chính sách huy động, quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Vấn đề huy động và sử dụng vốn không còn là vấn đề mới mẻ nhưng vẫn là vấn đề mang tính chất thơì sự, đã và đang được các nhà kinh tế quan tâm. Bở vì nhu cầu vốn ngày càng tăng nhanh theo kịp độ phát triển kinh tế xã hội. Theo sự báo của Bộ kế hoạch đầu tư, trong giai đoạn từ 2001-2005 để đạt tốc độ tăng trưởng 6-7%/năm và tổng GDP đạt khoảng 190 tỷ USD trong cả giai đoạn thì Việt Nam cần phải huy động vốn cho đầu tư phát triển khoảng 50-60 tỷ USD ( ≈30% GDP) trong đó vốn trong nước khoảng 60%, vốn trung và dài hạn khoảng từ 40-50% vốn đầu tư. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa phải đạt khoảng 26% GDP. Như vậy, nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn. Vấn đề đặt ra là phải có cơ chế, chính sách và giải pháp nhất quán, đồng bộ để khai thác và sử dụng có hiệu quả. Hiện nay, trong điều kiện thị trường chứng khoán ở nước ta chưa hoàn thiện thì NHTM vẫn đóng vai trò là một kênh huy động vốn trung và dài hạn rất quan trọng trong nền kinh tế. 3.2- Vai trò của huy động vốn trung và dài hạn qua hệ thống NHTM. * Đối với nền kinh tế: - Góp phần thực hiện chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường, ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm các nước công nghiệp cho thấy, để ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát, đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính và tiền tệ. Trong đó, giải pháp khá hữu hiệu là không ngừng tăng cường huy động vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là huy động vốn qua hệ thống NHTM. Thông qua nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu,... NHTM sẽ huy động được khá lớn lượng tiền mặt trong nền kinh tế, thu hẹp lượng tiền mặt trong lưu thông. Qua đó góp phần làm giảm áp lực tăng giá cả hàng hoá, ổn định mặt bằng lãi suất huy động của nền kinh tế. - Góp phần tích cực trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của NHTM mà mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được khơi dậy, đảm bảo phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển, tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Qua đó góp phần quan trọng vào việc thực hành tiết kiệm, huy động cả nội lực và ngoại lực để xây dựng đất nước theo hướng phát triển và hoà nhập với nền kinh tế thế giới. - Góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường vốn. Trong đó vai trò cốt lõi là thị trường chứng khoán. Bằng nghiệp vụ phát hành các giấy tờ có giá trung và dài hạn trong công tác huy động vốn, các NHTM đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập và đa dạng hoá các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó thông qua nghiệp vụ huy động tiền gửi từ các tầng lớp dân cư đã tạo ra tiền đề quan trọng cho việc tích luỹ vốn của các chủ thể đầu tư trong quá trình mua chứng khoán. - Ngoài ra, huy động vốn trung và dài hạn thông qua hệ thống NHTM còn góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong quá trình đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng,... Hơn nữa còn góp phần đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư và đẩy nhanh quá trình hội nhập vào thị trường chứng khoán quốc tế thông qua nghiệp vụ phát hành trái phiếu quốc tế, vay mượn vốn trung và dài hạn từ các Ngân hàng nước ngoài. * Đối với bản thân NHTM: - Góp phần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn của Ngân hàng. Bên cạnh các nghiệp vụ huy động vốn ngắn hạn mang tính chất truyền thống như: Tiền gửi thanh toán, Tiết kiệm ngắn hạn, Kỳ phiếu ngắn hạn,... thì công tác huy động vốn trung và dài hạn cũng ngày càng được chú trọng và không ngừng đổi mới nhằm phục vụ tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng với đầy đủ các tiện ích cần thiết và tính thanh khoản cao như : Kỳ phiếu có mục đích, Trái phiếu, Tiền gửi tiết kiệm có thưởng,... - Đảm bảo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Mặc dù có thể chuyển hoán nguồn vốn ngắn hạn để cho vay và đầu tư trung và dài hạn nhưng thông thường nó bị hạn chế ở một tỷ lệ nhất định. Do đó không thể thiếu vốn trung và dài hạn trong việc tài trợ cho nhu cầu tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án dài hạn. Hơn nữa, trong quá tình hoạt động, nhu cầu mở rộng mạng lưới liên doanh, liên kết là điều tất yếu xảy ra. Vì vậy huy động vốn trung và dài hạn qua chủ sở hữu sẽ tạo ra nguồn vốn đáp ứng tốt nhất cho vấn đề này. - Góp phần làm tăng khả năng thanh khoản trong thanh toán cho ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của khách hàng thì về nguyên tắc NHTM phải có nguồn vốn trung và dài hạn tương ứng để tài trợ, tạo nên sự phù hợp về kỳ hạn của nguồn vốn và tài sản. Song, cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính, sự phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản không còn là vấn đề duy nhất nhằm tạo ta thanh khoản cho NHTM. Thay vào đó, NHTM có thể thực hiện chuyển hoán kỳ hạn của nguồn- dùng nguồn ngắn để cho vay và đầu tư trung và dài hạn, nhằm gia tăng lợi nhuận mà vẫn đảm bảo tính thanh khoản. Tuy nhiên việc chuyển hoá kỳ hạn phụ thuộc nhiều vào môi trường kinh doanh cũng như tiềm lực của NHTM. Do đó về lâu dài thì có một nguồn vốn trung và dài hạn hợp lý sẽ làm tăng khả năng an toàn thanh toán khi có một dòng tiền gửi bị rút ra. - Ngoài ra, ở một số quốc gia, NHTM huy động vốn trung và dài hạn mang tính chất như thực hiện nhiệm vụ cho Chính phủ giao cho trong việc đáp ứng nhu cầu vốn tài trợ cho các chương trình kinh tế, các dự án trọng điểm, then chốt của quốc gia. Bên cạnh đó, bằng nghiệp vụ nhận làm Ngân hàng đại lý, nhận tài trợ uỷ thác đầu tư, NHTM còn được hưởng phí hay hoa hồng để tăng thêm thu nhập. Tóm lại, huy động vốn trung và dài hạn qua hệ thống NHTM có vai trò rất quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế cũng như đảm bảo hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng. Nó đóng vai trò là một kênh huy động vốn hữu hiệu, khơi dậy mọi nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế cũng như góp phần thu hút vốn nước ngoài để tập trung phục vụ cho đầu tư phát triển, tạo tiền đề cho sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. II- Nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suất cho quá tình hình thành và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong kinh doanh. Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngân hàng là điều rất cần thiết. Mỗi Ngân hàng hoạt động trong một môi trường, điều kiện cụ thể sẽ có các nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn khác nhau. Song nhìn chung các NHTM thường áp dụng một số nghiệp vụ cơ bản sau: 1- huy động từ chủ sở hữu: Nguồn vốn trung và dài hạn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự có và một số quỹ mang tính chất đặc thù của mỗi quốc gia ( như Quỹ đầu tư phát triển do Chính phủ cấp cho một số NHTM quốc doanh ở Việt Nam). Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thức như: Vốn pháp định, vốn điều lệ và các quỹ. Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương Ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. ở Việt Nam, để thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của NHNN. Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như sau: Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do Ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu; Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp của cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu; Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của ngân hàng tham gia liên doanh. Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng đó ( vốn điều lệ bao hàm cả vốn pháp định). Ngoài ra vốn tự có củaNHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng ( đây là các quỹ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng) như: Quỹ bảo toàn vốn, Quỹ phúc lợi, Quỹ khấu hao tài sản cố định,... Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của một ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng, vì nó cho thấy thực lực, quy mô của ngân hàng, nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nguồn vốn này có tính ổn định cao, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tài trợ cho các tài sản cố định của NHTM, tài trợ cho hoạt động liên doanh liên kết, mở rộng mạng lới, hay để chống rủi ro,...; Qua đó nhằm hướng tới mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng. Theo đà phát triển, nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối thông qua các nghiệp vụ của mỗi NHTM có thể áp dụng như sau: - Tăng cường và bổ sung thêm vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn từ các cổ đông, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu,... Các nghiệp vụ huy động này thường được các NHTM cổ phần áp dụng. Tuy nhiên, việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu sẽ gây áp lực đối với các cổ đông cũ của ngân hàng, việc tăng thêm cổ phần sẽ kéo theo sự suy giảm tương đối về cổ tức đối với các cổ đông. - Đối với NHTM quốc doanh hay NHTM liên doanh thì có thể tăng thêm vốn tự có thông qua sự cấp thêm vốn của Chính phủ hay đóng góp thêm vốn của các bên liên doanh. - Ngoài ra, nguồn vốn tự có của NHTM còn được bổ sung thêm từ kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ và một số quỹ khác. Bên cạnh nguồn vốn tự có, ở một số quốc gia mà cụ thể là ở Việt Nam, một số NHTM như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam còn được Chính phủ cấp vốn dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho vay lại theo kế hoạch Nhà nước chỉ định. Nguồn này có tính ổn định tương đối cao, trong thời gian ngắn Nhà nước chưa yêu cầu Ngân hàng trả gốc và lãi cho khoản tiền này mà Ngân hàng chỉ phải trích lập quỹ để bảo toàn nguồn vốn theo quy định. Uy tín và hiệu quả trong kinh doanh của Ngân hàng chính là cơ sở để thu hút nguồn vốn ổn định này. Tóm lại, nguồn vốn huy động từ chủ sở hữu là nguồn vốn trung và dài hạn đóng vai trò nền tảng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM nhưng có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và phát triển của ngân hàng; mặc dù công tác huy động không thuận lợi, phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh củ ngân hàng nhưng việc tăng cường mở rộng nguồn vốn này một cách hợp lý là rất quan trọng đối với tất cả các NHTM. 2- Huy động tiền gửi trung và dài hạn ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu là số tiền của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, ti

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100774.doc
Tài liệu liên quan