Khi bước vào hoạt động kinh doanh, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng vì mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận luôn là mục đích cuối cùng cấn đạt được. Lợi nhuận không chỉ là chỉ tiêu phản ánh kết quả của doanh nghiệp mà nó còn phản ánh khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp . Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp – Doanh nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên lợi nhuận cũng là vấn đề được đạt ra hàng đầu.
Trong thế kỷ thứ 21 này – thế kỷ mở cửa và hội nhập, khi kinh tế thị trường các quốc gia là một, các ngân hàng không những cạnh tranh với những đối thủ trong nước mà còn phải cạnh tranh với các ngân hàng đầy kinh nghiệm nước ngoài. Đây vừa là gánh nặng nhưng cũng đồng thời cũng là thách thức đôi với các ngân hàng nước nhà. Vì vậy bài toán lợi nhuận càng trở lên khó khăn hơn. Làm sao để tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí để nâng cao lợi nhuận, nâng cao hiệu quả kinh doanh – đây là vấn đề bức xúc của các ngân hàng. Vì vậy nên em chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại ngân hàng nông nghiệp Nam Hà Nội” làm chuyên đề thực tập cho mình.
62 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1105 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại ngân hàng nông nghiệp Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Khi bước vào hoạt động kinh doanh, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng vì mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận luôn là mục đích cuối cùng cấn đạt được. Lợi nhuận không chỉ là chỉ tiêu phản ánh kết quả của doanh nghiệp mà nó còn phản ánh khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp . Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp – Doanh nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên lợi nhuận cũng là vấn đề được đạt ra hàng đầu.
Trong thế kỷ thứ 21 này – thế kỷ mở cửa và hội nhập, khi kinh tế thị trường các quốc gia là một, các ngân hàng không những cạnh tranh với những đối thủ trong nước mà còn phải cạnh tranh với các ngân hàng đầy kinh nghiệm nước ngoài. Đây vừa là gánh nặng nhưng cũng đồng thời cũng là thách thức đôi với các ngân hàng nước nhà. Vì vậy bài toán lợi nhuận càng trở lên khó khăn hơn. Làm sao để tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí để nâng cao lợi nhuận, nâng cao hiệu quả kinh doanh – đây là vấn đề bức xúc của các ngân hàng. Vì vậy nên em chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại ngân hàng nông nghiệp Nam Hà Nội” làm chuyên đề thực tập cho mình.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài rộng liên quan tới tất cả các mảng hoạt động của NHTM. Vì vậy chuyên đề này chỉ đi sâu phân tích kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội. Trên cơ sở nghiên cứu tổng quát về các hoạt cơ bản của Chi nhánh Nam Hà Nội, chuyên đề này tiến hành phân tích, đánh giá tình hình thu nhập – chi phí từ đó đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ lý luận cơ bản về NHTM và lợi nhuận của NHTM
Phân tích thực trạng kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
Đưa ra các giải pháp chủ yếu để hoàn thành và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề xử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng trong mối quan hệ với duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp các vấn đề nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu phương pháp này được sử dụng một cách linh hoạt – kết hợp hoặc riêng rẽ để giải quyết vấn đề một cách tốt nhất. Ngoài ra chuyên đề còn sử dụng các sơ đồ, bảng biểu để minh hoạ qua đó rút ra kết luận tổng quát.
Bố cục của chuyên đề
Chuyên đề gồm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về NHTM và lợi nhuận của NHTM
Chương 2:Thực trạng kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận tại NHNo & PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHTM VÀ LỢI NHUẬN CỦA NHTM
1.1. Khái quát về NHTM trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm kinh doanh của NHTM.
Khái niệm NHTM
NHTM là một trung gian tài chính có vị trí quan trọng nhất, là một bộ phận hợp thành trong hệ thống tài chính của nền kinh tế thị trường. Nó hoạt động theo định chế tổ chức tài chính mang tính tổng hợp có chức năng dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn nhằm tạo điều kiện cho đầu tư phát triển kinh tế. Ngân hàng huy động vốn dưới nhiều hình thức và tiến hành cho vay các đối tượng có nhu cầu.
Để đưa ra được định nghĩa về NHTM người ta thường phải dựa vào tính chất, mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết hợp tính chất mục tiêu và đối tượng hoạt động.
Đặc điểm kinh doanh của NHTM
Ngày nay trong thế giới hiện đại hoạt động của các tổ chức tài chính là môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển cả về số lượng và quy mô hoạt động, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt NHTM với các tổ chức trung gian tài chính khác ở đến tiền tệ. Đây là đặc trưng cơ bản nhất, phân biệt kinh doanh ngân hàng những đặc trưng cơ bản sau:
NHTM là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ khác liên quan với lĩnh vực kinh doanh khác và là đặc điểm nói lên tính đặc biệt trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo cơ chế thị trường. Các ngân hàng huy động các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để dùng vào mục đích cho vay, đầu tư vào những lĩnh vực được nhà nước cho phép. Những hoạt động huy động vốn , cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng.
Kinh doanh ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro. Với chức năng làm trung gian thanh toán ngân hàng toạ ra cơ hội để thu lợi nhuận cao nhất cho mình nhưng cũng nhận về mình ngững rủi ro cả từ phía người gửi tiền và người vay tiền. Vì vậy ngân hàng luôn phải có những phương pháp và kỹ thuật quản lý phòng ngừa và hạn chế rủi ro bảo vệ quyền lợi của chính ngân hàng và khách hàng.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng mang tính hệ thống cao, chịu sự quản lý nghiêm ngặt của nhà nước. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có ảnh hưởng sâu rộng tới toàn bộ nền kinh tế , do đó rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng sẽ tác động đến toàn hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, ngoài việc chịu sự quản lý nghiêm ngặt của các cơ quan quản lý Nhà Nước hoạt động ngân hàng phải duy trì tính ràng buộc theo hệ thống, đó là sự ràng buộc về kỹ thuật về tổ chức do ngân hàng tự thiết lập hoặc do Nhà Nước quy định. Tính hệ thống giữa các ngân hàng không chỉ đơn thuần là do yêu cầu có sự thống nhất về mặt kỹ thuật nghiệp vụ trên phạm vi ngày càng rộng mà còn bởi nhu cầu phải hỗ trợ nhau giữa các ngân hàng về thanh khoản, vốn kinh doanh, chia sẻ rủi ro để đảm bảo an toàn của bản thân,của hệ thống và nền kinh tế.
1.1.2. Mục tiêu hoạt động kinh doanh của NHTM
Tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng
NHTM cũng như bất kỳ một DN khác đều có mục tiêu kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng. Trong xu thế mở cửa hội nhập kinh tế hiện nay hoạt động kinh doanh của ngân hàng đã vươn ra trên phạm vi khu vực vaf toàn thế giới. Chính vì vậy, cùng với hoạt động tín dụng mang tính chất truyền thống ,các NHTM còn mở rộng thêm nhiều nghiệp vụ kinh doanh hiện đại mới trên thị trường và cùng với sự cạnh tranh khốc liệt trong cơ chế thị trường các ngân hàng đang muốn nâng dần tỷ trọng lợi nhuận trong các nghiệp vụ mới này. Làm như vậy lợi nhuận của Ngân hàng không ngừng tăng lên đồng thời cũng giúp ngân hàng phân tán được rủi ro.
Tuy nhiên, do tính đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng là kinh doanh tiền tệ nên mọi hoạt động của ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro.
Giảm thiểu rủi ro
Vậy rủi ro là gì ?
Trong thuật ngữ tài chính , rủi ro liên quan đến khả năng mất mát tài chính của ngân hàng, rủi ro là một phần của bất cứ giao dịch tài chính và cũng như bản thân các giao dịch tài chính có cần được sự quản lý một cách khoa học .
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng được phân chia theo nguyên nhân – các nhân tố tác động bao gồm:
Rủi ro tín dụng : Là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ cả vốn và lãi.
Rủi ro hối đoái: Là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá sự thay đổi dự tính .
Rủi ro lãi suất: là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính .
Rủi ro thanh khoản: Là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.
Rủi ro tồn đọng vốn: Xảy ra khi vốn bị tồn đọng lớn không cho vay và đầu tư làm thu nhập của ngân hàng giảm sút.
Rủi ro luôn tồn tại song song cùng với quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nó có thể gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Nếu ở mức nhẹ thì gây ra tổn thất cho ngân hàng, điều này làm thu nhập của ngân hàng giảm sút dẫn đến tỷ suất lợi tức và thị giá cỏ phiếu của ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm nếu không được kíp thời chấn chỉnh sẽ có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sáp nhập và thay thế ban quản lý ngân hàng. Còn nếu rủi ro ở mức cao thì có thể gây ra sự đổ vỡ ngân hàng, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, an toàn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng là mối quan tâm của nhiều người, nhiều tổ chức và quốc gia. Để đảm bảo duy trì sự an toàn này các NHTM phải xây dựng chiến lược về quản lý rủi ro, từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra.
1.1.3. Nội dung hoạt động kinh doanh của NHTM
Bản chất của NHTM là huy động vốn để cho vay , hoạt động huy động vốn tạo nên nguồn vốn của ngân hàng và hoạt động cho vay hình thành nên tài sản có sinh lời cho ngân hàng. Các ngân hàng hiện đại ngày nay không chỉ thực hiện huy động vốn để cho vay mà còn phải đa dạng hoá thêm nhiều loại hình dịch vụ để tối đa hoá lợi nhuận đồng thời phân tán rủi ro cho ngân hàng. Toàn bộ hoạt động của NHTM được thể hiện qua cac nghiệp vụ chủ yếu sau:
Nghiệp vụ huy động vốn
Các hoạt động huy động vốn là các nghiệp vụ bên nợ của bảng tổng kết tài sản của ngân hàng , phục vụ cho việc tạo lập vốn của ngân hàng. Nghiệp vụ huy động vốn bao gồm những hoạt động chủ yếu sau:
a) Nhận tiền gửi
Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh n ghiệp , các tổ chức ,cá nhân hay hộ gia đình vào ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó ngân hàng có thể sử dụng vao mục đích kinh doanh. Vì thế các nguồn vốn huy động này khác nhau về thời hạn , về lãi suất và có thể chia thành các nguồn tiền gửi như sau:
Tiền gửi thanh toán : Là khoản tiền gửi không kỳ hạn, được gửi vào ngân hàng với mục đích thanh toán , chi trả cho các hoạt động hàng hoá dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một các thường xuyên ,an toàn ,nhanh chóng và thuận tiện. Với loại tiền gửi này, người giử tiền có thể phát hành séc, uỷ nhiệm chi và các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Loại tiền gửi này chỉ có mục đích thanh toán nên khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào , do đó nguồn vốn huy động này thường xuyên không ổn định .
Tiên gửi có kỳ hạn: Là loại tiền mà người gửi tiền vào ngân hàng với thời hạn cụ thể , với mục đích an toàn tài sản và hưởng lãi. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn khoản tiền này vào hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hoá loại tiền gửi bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng. Đối với loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút trước hạn nhưng phải báo trước cho ngân hàng và phải chịu phạt theo qui định của ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm: Là loại tiền gửi của các tẩng lớp dân cư trong xã hội với mục đích tích luỹ và hưởng lãi. Loại tiền gửi này có tính chất ổn định nên ngân hàng có thể chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn .
b) Nghiệp vụ đi vay
Nghiệp vụ đi vay thể hiện quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW hoặc giữa các NHTM với nhau hay vay của các TCTD khác. NHTM vay để bổ sung vào vốn hoạt động của mình trong trường hợp tạm thời thiếu hụt vốn khả dụng.
NHTM đi vay NHTW thông qua hình thức vay ngắn hạn hoặc tái cấp vốn . Vay ngắn hạn là hình thức các NHTM xin vay vốn để bổ sung vốn ngắn hạn của mình . Trong hình thức vay này , các NHTM chỉ được vay khi còn HMTD và trong HMTD đã thoả thuận. Còn hình thức tái cấp vốn là việc NHTW cho NHTM vay trên cơ sở tái chiết khấu GTCG hay cho vay có bảo đảm bằng các GTCG như thương phiếu và các công cụ nợ khác.
Một nguồn khác mà NHTM có thể sử dụng là vay của NHTM và các TCTD khác dưới hình thức vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng, hoặc vay từ nước ngoài để xử lý những biến động bất thường của bản thân và thị trường. Việc vay vốn này có nhiều hình thức và thời hạn vay linh hoạt nhằm bổ sung nguồn vốn của nhân hàng trong trường hợp không tự huy động được. Tuy nhiên vốn đi vay của NHTM thường phải trả chi phí cao hơn so với vốn tự huy động.
c) Phát hành giấy tờ có giá
GTCG là các công cụ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định, lãi suất của loại này phụ thuộc vào mức độ cấp thiết của việc huy động vốn và thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn. Thông thường các NHTM có thể phát hành GTCG chủ yếu dưới 3 hình thức:
+ Kỳ phiếu thường có thời hạn 3 đến 12 tháng
+ Trái phiếu có thời hạn trên 12 tháng
+ Chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn và dài hạn
Các loại GTCG này được phát hành từng đợt với quy mô, thời hạn tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn và thường được định trước lãi suất và cách trả lãi.
Cho vay đầu tư tài chính
a) Nghiệp vụ cho vay
Hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ vhur yếu và quan trọng của các NHTM , nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có của NHTM. Do đó , đây là nghiệp vụ mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng, nó vừa giúp ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh vừa giúp ngân hàng tăng thêm lợi nhuận. Các NHTM thực hiện nghiệp vụ này thông qua các hình thức chủ yếu sau:
Cho vay chiết khấu : Là nghiệp vụ mà trong đó khách hàng phải chuyển giao cho ngân hàng những GTCG còn thời hạn thanh toán và số tiền được vay sẽ bằng mệnh giá trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí .
Cho vay ứng trước: Là nghiệp vụ mà ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở cho khách hàng một tài khoản và chuyển số tiền vay vào tài khoản tiền gửi cho họ, khách hàng có thể phát hành séc, uỷ nhiệm chi để mua hàng hoá dịch vụ.
Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ mà ngân hàng cho phép khách hàng được sử dụng dư nợ vượt quá số dư trên tài khoản vãng lai.
Cho vay theo dự án: Là hình thức cho vay trung dài hạn, là phương pháp tài trợ vốn cho dự án đã được xây dựng trước. Trong đó việc cho vay được tiến hành trên một văn bản hoàn chỉnh về việc vay và trả nợ đã được nghiên cứu, soạn thảo, được ký kết giữa chủ dự án và ngân hàng.
Cho vay thuê mua: Là hình thức tín dụng trung dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, động sản và bất động sản giữa bên cho thuê là ngân hàng và khách hàng thuê. Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê và đặc biệt không đươc đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. Khi hết thời hạn thuê, khách hàng được quyền mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng.
Cho vay hợp vốn: Là nghiệp vụ mà một nhóm các ngân hàng sẽ cùng cho vay đối với cùng một dự án vay vốn, trong đó sẽ có một tổ chức đứng ra làm đầu mối để dàn xếp theo quy định.
Ngoài ra nghiệp vụ tín dụng còn có các loại hình khác như tín dụng ngân quỹ, tín dụng bằng chữ ký, tín dụng tiêu dùng….rất phong phú và đa dạng.
b) Nghiệp vụ đầu tư tài chính
Đầu tư tài chính là nghiệp vụ phổ biến trong nghiệp vụ tài sản có của các NHTM. Ngân hàng có thể đầu vào trái khoán chính phủ, hoặc trái khoán công ty để thu lợi tức đầu tư mang lại thu nhập cho ngân hàng. Nghiệp vụ này cũng nâng cao khả năng thanh toán cho ngân hàng, bảo tồn ngân quỹ ,đặc biệt khi đầu tư vào trái khoán chính phủ vì loại trái khoán này co tính lỏng cao. Đồng thời nó còn làm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm phân tán rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Việc sử dụng vốn để đầu tư vào nghiệp cụ này các NHTM phải tuân theo những quy định chặt chẽ và chỉ được sử dụng nguồn vốn tự có để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác.
Dịch vụ ngân hàng
Khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng càng cao. Do đó, ngoài các nghiệp vụ chính các NHTM còn thực hiện nhiều các dịch vụ khác nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khach hàng và góp phần làm tăng thu nhập cho mình với mức rủi ro thấp nhất. Các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp rất phong phú và đa dạng bao gồm:
a) Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối và vàng bạc, đá quý trên thị trường trong nước và quốc tế. Nghiệp vụ này được thực hiện khi NHNN cho phép, NHTM có thể thực hiện kinh doanh giao ngay, giao dịch ngoại hối kỳ hạn hoặc giao dịch kép và giao dịch mua bán quyền lựa chọn.
b) Dịch vụ tư vấn: Là loại dịch vụ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng ký kết và cung cấp cho bên được tư vấn những trợ giúp của những nhân viên được đào tạo về chuyên môn một cách khách quan độc lập. Ngân hàng là một doanh nghiệp có quan hệ với nhiều khách hàng, lưu trữ nhiều thông tin của các tổ chức kinh tế và các nhân viên ngân hàng có kinh nghiệm trong lĩnh vực tiền tệ. Bởi vậy các chuyên gia của ngân hàng có thể đưa ra những lời khuyên tối ưu cho khách hàng, giúp họ giải quyết các vần đề trong hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả nhất. Dịch vụ của ngân hàng không chỉ giúp cho ngân hàng nâng cao uy tín trong mắt khách hàng mà còn giúp ngân hàng thu được các khoản phí.
c) Dịch vụ thanh toán: Đây là dịch vụ khá phổ biến của các NHTM, dịch vụ này giúp ngân hàng thu được một khoản phí nhất định đồng thời giúp cho các khách hàng thanh toán mà không cần phải tốn nhiều thời gian.
d) Dịch vụ uỷ thác: Bao gồm uỷ thác cho cá nhân và uỷ thác cho doanh nghiệp. Trong đó uỷ thác cho cá nhân có quản lý thanh lý tài sản theo di chúc, quản lý điều hành tài sản theo hợp đồng với nội dung là chuyển nhượng tài sản từ người uỷ thác sang người chịu uỷ thác, giám hộ và bảo quản tài sản, dịch vụ đại diện.còn dịch vụ uỷ thác đối với doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các mục đích trợ cấp hưu trí, phân chia lợi nhuận, thực hiện các dịch vụ quản lý hưu trí, uỷ thác và làm đại lý cho các tổ chức từ thiện, các tổ chức khác.
Thực hiện dịch vụ uỷ thác không những mang lại cho ngân hàng một nguồn thu nhập khá lớn (nguồn thu lệ phí và hao hồng uỷ thác hàng năm) mà còn giúp ngân hàng củng cố và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng.
Ngoài các dịch vụ chủ yếu đó ra thì trong hệ thống dịch vụ của các NHTM còn bao gồm nhiều các dịch vụ khác như: dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo quản và ký gửi….
1.2. Lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTM
1.2.1. Lợi nhuận của NHTM
Khái niệm
NHTM là những doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng với nhiệm vụ cơ bản của các NHTM là kinh doanh và phục vụ cho các chính sách kinh tế của đất nước. Do đó lợi nhuận của NHTM cũng xuất phát từ hoạt động kinh doanh này.
Lợi nhuận thực hiện trong năm là kết quả kính doanh của NHTM bao gồm lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận thu được từ các hoạt động khác. Lợi nhuận của NHTM là khoản chênh lệch được xác định giữa tổng doanh thu trừ đi tổng các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ trong năm tài chính. Thời điểm xác định lợi nhuận hàng năm được thực hiện vào cuối ngày 31/12 khi quyết toán niên độ, lập báo cáo tài chính năm. Để việc xác định lợi nhuận được chính xác thì phải xác định được chính xác tổng doanh thu và tổng chi phí của toàn hệ thống trong năm.
Công thức xác định lợi nhuận:
Lợi nhuận trước thuế = tổng thu nhập – tổng chi phí
Lợi nhuận sau thuế = lợi nhuận trước thuế - thuế thu nhập
Thuế thu nhập = lợi nhuận trước thuế x thuế suất thuế thu nhập
Thông thường, việc xác định lợi nhuận được thực hiện tại các đơn vị thành viên ( chi nhánh ) , sau đó tổng hợp lên cấp chủ quản ( hội sở chính ) để xác định lợi nhuận của toàn hệ thống và phân phối lợi nhuận theo kết quả kinh doanh đạt được trong năm tài chính .
Thu nhập của NHTM
Doanh thu của NHTM được hình thành từ thu lãi cho vay, đầu tư, từ kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và từ các dịch vụ thanh toán, ngân quỹ…trong đó, thu lãi từ cho vay và đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất. Ngày nay, do hoạt đọng ngân hàng rất đa dạng nên nội dung các khoản thu trong NHTM cũng rất đa dạng và phong phú. Nhìn chung các khoản thu cơ bản của NHTM bao gồm:
Thu nhập từ hoạt động tín dụng : Bao gồm thu lãi tiền gửi, thu lãi cho vay, thu lãi đầu tư chứng khoán, thu lãi cho thuê tài chính và thu lãi khác.
Thu phí từ hoạt động dịch vụ: Gồm thu từ dịch vụ thanh toán, thu từ nghiệp vụ bảo lãnh,thu từ dịch vụ ngân quỹ, thu từ nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, thu từ dịch vụ tư vấn, thu từ kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm, thu phí nghiệp vụ chiết khấu, thu từ cung ứng dịch vụ bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két và thu khác.
Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối: Gồm thu về kinh doanh ngoại tệ và kinh doanh vàng.
Thu hoạt động kinh doanh khác: Thu kinh doanh chứng khoán, thu nghiệp vụ mua bán nợ và thu về hoạt động kinh doanh khác.
Thu lãi góp vốn, mua cổ phần: Là số lãi thu được từ việc góp vốn mua cổ phần, góp vốn liên doanh của ngân hàng với các tổ chức khác.
Thu nhập bất thường: Là các khoản thu nhập của ngân hàng ngoài các khoản thu nhập nói trên, những khoản thu nhập phát sinh do chủ quan hoặc khách quan đưa tới mà ngân hàng không dự tính trước hoặc dự tính trước nhưng ít có khả năng thực hiện, những khoản thu không mang tính chất thường xuyên .
1.2.1.3 Chi phí của NHTM
Chi phí của NHTM gồm các khoản: chi phí trả lãi tiền gửi, trả lãi tiền vay, chi kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc đá quí, chi quản lý …trong đó chi trả lãi tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất. Mỗi khoản chi phí có tính chất và vai trò khác nhau.
Chi phí của ngân hàng rất đa dạng và phức tạp, xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của ngân hàng và tính chất vô hình của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Việc xác định mức chi phí hợp lý là rất quan trọng và cũng là một công việc khó khăn vì nó quyết định đến sự tồn tại và lợi nhuận của ngân hàng. Hiện nay, các khoản chi phí chủ yếu của ngân hàng gồm có :
*) Chi phí cho nghiệp vụ kinh doanh: Đây là chi phí thường xuyên, chiếm tỷ trọng lớn gắn liền với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong khoản mục này chi phí gồm có:
- Chi phí hoạt động huy động vốn: Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất bao gồm :
+ Chi trả lãi tiền gửi: Là khoản tiền mà ngân hàng phải bỏ ra để được sử dụng nguồn vốn từ người gửi tiền. Qui mô của khoản chi này phụ thuộc vào số dư các loại tiền gửi, cơ cấu vốn huy động và mức lãi suất phải trả.
+ Chi trả lãi tiền vay: Là khoản phải trả cho các khoản tiền vay như vay NHNN, vay các TCTD khác trong và ngoài nước.
+ Chi trả lãi phát hành giấy tờ có giá: Là khoản lãi mà ngân hàng phải trả khi phát hành GTCG để huy động vốn trên thị trường. Tuy nhiên, đây không phải là hình thức mà các NHTM thường xuyên sử dụng do đó chi phí cho việc phát hành GTCG chiếm tỷ trọng nhỏ.
Chi phí hoạt động dịch vụ: Gồm các khoản chi như chi lệ phí tham gia hệ thống thanh toán liên hàng, chi về giấy tờ thanh toán, phí bưu điện và mạng viễn thông trong dịch vụ thanh toán, chi kiểm đếm, phân loại bảo quản tiền.
Chi về nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế: bao gồm các khoản chi trực tiếp cho hoạt động kinh doanh ngoại hối như mua bán ngoại tệ, vàng bạc, phí nhờ thu tiêu thụ ngoại tệ, phí dịch vụ thanh toán quốc tế, chi phí vận chuyển, đóng gói bảo quản chế tác vàng bạc.
Chi về hoạt động khác.
*) Chi phí cho nhân viên và chi phí cho quản lý: Là các khoản chi cho các hoạt động của bộ máy ngân hàng. Nội dung của khoản chi này bao gồm:
- Chi lương và phụ cấp cho cán bộ công nhân viên ngân hàng theo chế độ qui định
- Các khoản chi theo lương như chi nộp bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm lao động, nộp kinh phí công đoàn và các khoản chi đóng góp theo chế độ.
- Chi trợ cấp: Trợ cấp khó khăn, trợ cấp khác theo qui định.
- Chi trang phục giao dịch và phương tiện bảo hộ lao động
- Chi hoạt động quản lý và công cụ gồm: Chi về vật liệu giấy tờ in, chi công tác phí, chi đào tạo huấn luyện nghiệp vụ, chi nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, chi bưu phí và điện thoại, chi xuất bản tài liệu tuyên truyền quảng cáo, chi phí quản lý khác,
*) Chi về tài sản: Chi khấu hao tài sản cố định, bảo dưỡng và sửa chữa tài sản, xây dựng, nhỏ, mua sắm công cụ lao động, bảo hiểm tài sản, thuê tài sản.
*) Chi nộp thuế làm nghĩa vụ với ngân sách nhà nước bao gồm chi nộp thuế và các khoản phí, lệ phí .
*) Chi phí khác: Chi phí dự phòng, bảo toàn và bảo hiểm tiền gửi của khách hàng, chi trả lệ phí hao hồng và các nghiệp vụ uỷ nhiệm.
*) Các khoản chi phí bất thường: Chi về thanh lý tài sản, tổn thất tài sản …
1.2.1.4 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của NHTM
Để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM người ta thường sử dụng các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời. Trong đó có hai chỉ tiêu thường được dử dụng phổ biến nhất là tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu ( ROE ) và tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA) .
ROE được tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng sau thuế chia cho vốn chủ sở hữu. Đây được xem là thước đo gần như chuẩn nhất, phản ánh trình độ cảu ban điều hành trong việc tối đa hoá tài sản của chủ sở hữu ngân hàng. Hệ số này cho biết ngân hàng đã sản sinh ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trên mỗi trăm đồng vốn tự có, biểu thị gián tiếp về khả năng tạo ra thu nhập, hiệu quả hoạt động, đòn bẩy tài chính và kế hoạch thuế.
ROA được tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng sau thuế chia cho tổng tài sản có. Hệ số này phản ánh khả năng của ban điều hành ngân hàng trong việc tận dụng các nguồn vốn để tạo ra thu nhập.
Hai chỉ số ROE và ROA có mối quan hệ chặt chẽ, được thể hiện qua biểu thức sau:
ROE = ROA x tổng tài sản/vốn chủ sở hữu.
Từ đẳng thức trên cho thấy thu nhập củ ngân hàng rất nhạy cảm với phương thức tài trợ tài sản – sử dụng nhiều nợ hơn hoặc nhiều vốn chủ sở hữu hơn. Một ngân hàng có ROA thấp có thể đạt được ROE khá cao thông qua việc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2688.doc