Cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội, hoạt động đầu tư nước ngoài đang có xu hướng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Quá trình hợp tác hoá diễn ra trên thế giới với tốc độ nhanh, mạnh và bền vững. Do vậy, không một quốc gia nào đứng ngoài vòng của sự phát triển chung. Hội nhập - hợp tác - phát triển là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật tự nhiên. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã nhận định: "Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác, liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế - thương mại."
Đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài, là một hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Đây là một hoạt động có vai trò to lớn đối với sự phát triển, đặc biệt là sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong tình hình hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra những cơ hội và thách thức chưa từng có cho các nước đang phát triển, nơi thiếu vốn - công nghệ - kỹ thuật và trình độ quản lý tiên tiến. Vì vậy, hiện nay không chỉ có các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển đều cố gắng tranh thủ thu hút vốn FDI nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân trên cơ sở tạo ra bước đột phá trong một vài lĩnh vự quan trọng.
Đối với Việt Nam, từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Luật đầu tư nước ngoài ra đời thì hoạt động FDI ngày càng được đánh giá cao trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, cải thiện môi trường kinh tế - xã hội. Trong thực tế, FDI đã đem lại những đóng góp đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, FDI có xu hướng giảm sút. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì trong giai đoạn 2001 - 2010, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cần phát triển vững chắc, tạo tiền đề cho giai đoạn sau. Do vậy, đề tài: "Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010" là một vấn đề bức xúc và mang tính thời sự trong hoạt động kinh tế của Thủ đô. Đề tài này được lựa chọn và nghiên cứu nhằm đưa ra những kiến nghị góp phần khắc phục những tồn tại và đẩy mạnh công tác huy động và sử dụng nguồn vốn FDI.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực về vai trò, nội dung, đặc điểm của nguồn vốn FDI.
- Phân tích và đánh giá thực trạng huy động và sử dụng vốn FDI ở Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu và mạng tính khả thi để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng FDI nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng tong giai đoạn 2001 - 2010.
Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề được nghiên cứu trên cơ sở nghiên cứu lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, sử dụng tổng hợp các quan điểm đổi mới của Đảng và nhà nước thể hiện trong các nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII, các nghị quyết của các hội nghị trung ương sau Đại hội, các nghị quyết của Thành uỷ Hà Nội, phương hướng phát triển kinh tế của Thành phố Hà Nội. Bên cạnh các phương pháp truyền thống như: phương pháp logic, phương pháp phân tích thống kê, phương pháp nghiên cứu và khảo sát thực địa, phương pháp đồ hoạ, phương pháp so sánh, phương pháp toán kinh tế còn sử dụng một số phương pháp mới: phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống, phương pháp chuyên gia.
Nội dung kết cấu của chuyên đề:
Đề tài: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của chuyên đề được chia thành 3 chương:
Chương I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoaì trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010.
Chuyên đề có các bảng số liệu, sơ đồ và phụ lục.
113 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1074 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
Cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội, hoạt động đầu tư nước ngoài đang có xu hướng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Quá trình hợp tác hoá diễn ra trên thế giới với tốc độ nhanh, mạnh và bền vững. Do vậy, không một quốc gia nào đứng ngoài vòng của sự phát triển chung. Hội nhập - hợp tác - phát triển là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật tự nhiên. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã nhận định: "Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia... Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác, liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế - thương mại.."
Đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài, là một hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Đây là một hoạt động có vai trò to lớn đối với sự phát triển, đặc biệt là sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong tình hình hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra những cơ hội và thách thức chưa từng có cho các nước đang phát triển, nơi thiếu vốn - công nghệ - kỹ thuật và trình độ quản lý tiên tiến. Vì vậy, hiện nay không chỉ có các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển đều cố gắng tranh thủ thu hút vốn FDI nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân trên cơ sở tạo ra bước đột phá trong một vài lĩnh vự quan trọng.
Đối với Việt Nam, từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Luật đầu tư nước ngoài ra đời thì hoạt động FDI ngày càng được đánh giá cao trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, cải thiện môi trường kinh tế - xã hội. Trong thực tế, FDI đã đem lại những đóng góp đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, FDI có xu hướng giảm sút. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì trong giai đoạn 2001 - 2010, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cần phát triển vững chắc, tạo tiền đề cho giai đoạn sau. Do vậy, đề tài: "Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010" là một vấn đề bức xúc và mang tính thời sự trong hoạt động kinh tế của Thủ đô. Đề tài này được lựa chọn và nghiên cứu nhằm đưa ra những kiến nghị góp phần khắc phục những tồn tại và đẩy mạnh công tác huy động và sử dụng nguồn vốn FDI.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực về vai trò, nội dung, đặc điểm của nguồn vốn FDI.
- Phân tích và đánh giá thực trạng huy động và sử dụng vốn FDI ở Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu và mạng tính khả thi để khắc phục những tồn tại và nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng FDI nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng tong giai đoạn 2001 - 2010.
Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề được nghiên cứu trên cơ sở nghiên cứu lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, sử dụng tổng hợp các quan điểm đổi mới của Đảng và nhà nước thể hiện trong các nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII, các nghị quyết của các hội nghị trung ương sau Đại hội, các nghị quyết của Thành uỷ Hà Nội, phương hướng phát triển kinh tế của Thành phố Hà Nội. Bên cạnh các phương pháp truyền thống như: phương pháp logic, phương pháp phân tích thống kê, phương pháp nghiên cứu và khảo sát thực địa, phương pháp đồ hoạ, phương pháp so sánh, phương pháp toán kinh tế còn sử dụng một số phương pháp mới: phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống, phương pháp chuyên gia.
Nội dung kết cấu của chuyên đề:
Đề tài: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của chuyên đề được chia thành 3 chương:
Chương i: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoaì trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2001 - 2010.
Chuyên đề có các bảng số liệu, sơ đồ và phụ lục.
Chương 1
Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nhưng đối với Việt Nam, đầu tư nước ngoài vẫn còn là một vấn đề hết sức mới mẻ . Do vậy để có một cái nhìn tổng thể, khai thác được những mặt tích cực và hạn chế được những mặt tiêu cực của đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH), đòi hỏi phải nghiên cứu vấn đề này một cách thấu đáo.
1. Đầu tư nước ngoài
1.1 Đầu tư
Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian tương đối dài nhằm thu được lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế- xã hội.
Vốn đầu tư bao gồm:
- Tiền tệ các loại: nội tệ, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý..
- Hiệnvật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên, hàng hoá, nhà xưởng..
- Hàng hoá vô hình: Sức lao động, công nghệ, thông tin, bằng phát minh, quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, dịch vụ, uy tín hàng hoá...
- Các phương tiện đặc biệt khác: cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, các chứng từ có giá khác.
Đặc trưng của đầu tư:
- Tính sinh lợi: Đầu tư là hoạt động tài chính (đó là việc sử dụng tiền vốn nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu).
- Thời gian đầu tư thường tương đối dài (từ 2-70 năm hoặc lâu hơn nữa).
Những hoạt động kinh tế ngắn hạn trong vòng một năm thường không gọi là đầu tư.
- Đầu tư mang tính rủi ro cao: Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn trong hiện tại nhằm thu được lợi ích trong tương lai. Mức độ rủi ro càng cao khi nhà đầu tư bỏ vốn ra nước ngoài.
Phân loại đầu tư:
- Theo phạm vi quốc gia:
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư ngoài nước.
- Theo thời gian sử dụng:
+ Đầu tư ngắn hạn.
+ Đầu tư trung hạn.
+ Đầu tư dài hạn.
- Theo lĩnh vực kinh tế:
+ Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Đầu tư vào sản xuất công nghiệp.
+ Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.
+ Đầu tư khai khoáng, khai thác tài nguyên.
+ Đầu tư vào lĩnh vực thương mại - du lịch - dịch vụ.
+ Đầu tư vào lĩnh vực tài chính.
- Theo mức độ tham gia của chủ thể quản lý đầu tư vào đối tượng mà mình bỏ vốn:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
+ Cho vay (tín dụng).
Trên thực tế, người ta thường phân biệt hai loại đầu tư chính: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Cách phân loại này liên quan đến việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
1.2 Đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Vốn đó có thể là vốn nhà nước, vốn tư nhân hoặc vốn của các tổ chức tài chính quốc tế.
Các hình thức đầu tư nước ngoài:
- Đầu tư gián tiếp: là hình thức mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn không phải là một. Người bỏ vốn không đòi hỏi thu hồi lại vốn (viện trợ không hoàn lại) hoặc không trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, họ được hưởng lợi tức thông qua phần vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp bao gồm:
+ Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (official Development assistance - ODA). Đây là nguồn vốn viện trợ song phương hoặc đa phương với một tỷ lệ viện trợ không hoàn lại, phần còn lại chịu mức lãi xuất thấp còn thời gian dài hay ngắn tuỳ thuộc vào từng dự án. Vốn ODA có thể đi kèm hoặc không đi kèm điều kiện chính trị.
+ Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (Non Government organization- NGO): Tương tự như nguồn vốn ODA nhưng do các tổ chức phi chính phủ viện trợ cho các nước đang thiếu vốn. Đó là các tổ chức như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)...
+ Tín dụng thương mại: là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các quốc gia.
+ Nguồn vốn từ việc bán tín phiếu, trái phiếu, cố phiếu...Đây là nguồn vốn thu được thông qua hoạt động bán các chứng từ có giá cho người nước ngoài. Có quốc gia coi việc mua chứng khoán là hoạt động đầu tư trực tiếp.
- Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là người sử dụng vốn. Nhà đầu tư đưa vốn ra nước ngoài để thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh, làm chủ sở hữu, tự quản lý, điều hành hoặc thuê người quản lý, hoặc hợp tác liên doanh với đối tác nước sở tại để thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu được lợi nhuận.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nươc ngoài là một trong những nguồn vốn tài chính đưa vào một nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài.
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment- FDI).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức hợp tác kinh doanh giữa các quốc gia trên thế giới, với những đặc thù riêng về mức độ tham gia quản lý của chủ đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào hoạt động sản xuất kinh doanh, về sự gắn liền với quá trình chuyển giao công nghệ, bí quyết quản lý, về tính chất lâu dài của dự án...
2.1. Khái niệm.
FDI đối với nước ta vẫn còn khá mới mẻ bởi hình thức này mới xuất hiện ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới. Do vậy, việc đưa ra một khái niệm tổng quát về FDI không phải là dễ. Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau trên thế giới đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI.
- Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (1977):
Đầu tư trực tiếp ám chỉ số đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một hãng hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư, mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong công việc quản lý hãng đó.
- Theo luật Đầu tư nước ngoài của Liên Bang Nga (04/07/1991): Đầu tư trực tiếp nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị tài sản và những giá trị tinh thần mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác nhằm mục đích thu lợi nhuận.
- Theo Hiệp hội Luật quốc tế Henxitiky (1996 )
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó những xí nghiệp kinh doanh hay dịch vụ.
- Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi, ban hành 12/11/1996, tại Điều 2 Chương 1:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này.
Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về FDI, song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
2.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau:
- Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn có cả công nghệ, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, năng lực Marketing, trình độ quản lý...Hình thức đầu tư này mang tính hoàn chỉnh bởi khi vốn đưa vào đầu tư thì hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành và sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nước chủ nhà hoặc xuất khẩu. Do vậy, đầu tư kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những nhân tố làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Đây là đặc điểm để phân biệt với các hình thức đầu tư khác, đặc biệt là với hình thức ODA (hình thức này chỉ cung cấp vốn đầu tư cho nước sở tại mà không kèm theo kỹ thuật và công nghệ).
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền trực tiếp tham gia điều hành, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chẳng hạn, ở Việt Nam theo điều 8 của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: ”Số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án” (Trừ những trường hợp do chính phủ quy định).
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phụ thuộc vào vốn góp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài càng cao thì quyền quảnlý, ra quyết định càng lớn. Đặc điểm này giúp ta phân định được các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu nhà đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành.
- Quyền lợi của các nhà ĐTNN gắn chặt với dự án đầu tư: Kết quả hoạt động sản xuất kinh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ đi thuế lợi tức và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà, nhà ĐTNN nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
- Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia (chiếm 90% nguồn vốn FDI đang vận động trên thế giới). Thông thường các chủ đầu tư này trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp (vì họ có mức vốn góp cao) và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
- Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể ĐTNN trong khuôn khổ luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn thông qua các công cụ như: thuế, giá thuê đất, các quy định để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một lĩnh vực, một ngành nào đó.
- Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính Phủ song có phần ít lệ thuộc vào quan hệ chính trị giữa các bên tham gia hơn so với ODA.
- Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ nhà, bởi nhà ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Trong khi đó, hoạt động ODA và ODF (official Development Foreign) thường dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài do hiệu quả sử dụng vốn thấp.
2.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tồn tại dưới nhiều hình thức, nhưng về cơ bản chính sách các hình thức sau:
2.3.1 Doanh nghiệp liên doanh (Join Venture Enterprise).
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa một bên hoặc các bên nước ngoài với một bên hoặc các bên nước nhận đầu tư để đầu tư, kinh doanh tại nước sở tại.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập và theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Vốn góp của bên nước ngoài không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh, tuy nhiên không hạn chế mức vốn góp tối đa.
- Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không được thấp hơn 30% vốn đầu tư, trừ một số trường hợp: Dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng tại các vùng sâu, vùng xa...tỷ lệ vốn pháp định có thể là 20% vốn đầu tư nhưng phải được sự chấp thuận của cơ quan cấp giấy phép đầu tư.
- Thời gian hoạt động của doanh nghiệp liên doanh không quá 50 năm, trong trường hợp đặc biệt không quá 70 năm.
- Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh. Số người tham gia Hội đồng quản trị của các bên căn cứ vào tỷ lệ vốn góp của mỗi bên trong vốn pháp định nhưng ít nhất là hai người. Các bên chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn góp của mình trong vốn pháp định.
- Các bên tham gia liên doanh được chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định.
- Doanh nghiệp liên doanh không được giảm vốn pháp định trong quá trình hoạt động. Hội đồng quản trị quyết định việc tăng vốn đầu tư, vốn pháp định thay đổi theo tỷ lệ vốn góp của các bên liên doanh và được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận.
Đây là hình thức đầu tư phổ biến nhất vì nó đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia; phạm vi, lĩnh vực, địa bàn hoạt động của doanh nghiệp liên doanh rộng.
2.3.2 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Capital Enterprise)
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của các tổ chức cá nhân, nước ngoài do tổ chức cá nhân nước ngoài thành lập tại nước nhận đầu tư, tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, thành lập và hoạt động theo hình thức công ty trách nhiệm, tuân theo pháp luật của nước nhận đầu tư.
- Toànbộ vốn đầu tư để duy trì sản xuất kinh doanh - kể cả phần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ban đầu do nhà ĐTNN bỏ ra.
- Vốn pháp định của doanh nghiệp không thấp hơn 30% vốn đầu tư. Trong thời gian hoạt động không được giảm vốn pháp định. Việc tăng vốn pháp định phải được cơ quan cấp giấy phép chuẩn y.
- Quyền quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh do chủ ĐTNN trực tiếp tham gia, nên họ sẽ tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
2.3.3 Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp đồng hợp tác kinh doanh Contrctual Business Cooperation)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hay nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt đông sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả sản xuất kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.
Đặc điểm:
- Hình thức này không thành lập pháp nhân mới. Hoạt động kinh doanh được thực hiện trên cơ sở ký kết văn bản thoả thuận giữa các bên. Hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư.
- Các bên liên doanh tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình trước pháp luật của nước nhận đầu tư và phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tài chính theo quy định của nước sở tại.
- Các bên hợp doanh thành lập Ban điều phối để giám sát mọi hoạt động hợp tác kinh doanh. Ban điều phối không phải là đại diện pháp lý của các bên hợp doanh.
Hình thức này chỉ áp dụng trong một số lĩnh vực nhất định: thăm dò, khai thác dầu khí, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch, bưu chính viễn thông...
2.3.4 Hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Build-Operate-Transfer) (BOT).
Hợp đồng BOT là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước nhận đầu tư với các tổ chức, cá nhân nước ngoài để xây dựng, khai thác, kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lãi. Hết thời hạn, tổ chức, cá nhân nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nước tiếp nhận đầu tư.
Đặc điểm:
- Đối tượng đầu tư chủ yếu là các công trình cơ sở hạ tầng cần vốn lớn và thời gian thu hồi vốn lâu.
- Không thành lập pháp nhân riêng, thường là 100% vốn nước ngoài.
- Nhà đầu tư nắm quyền sở hữu, quản lý công ty BOT.
2.3.5 Các hình thức đầu tư khác
- Hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO).
Hợp đồng BTO là văn bản ký kết giữa nước chủ nhà và các nhà ĐTNN để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng và chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà cho phép nhà ĐTNN được tiến hành kinh doanh để thu hồi vốn và đạt được một khoản lãi nhất định.
- Hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT):
hợp đồng BT là văn bản ký kết giữa nước chủ nhà với nhà ĐTNN để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (nhà đầu tư tài trợ về tài chính và xây dựng công trình). Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Ngược lại, nước chủ nhà có thể tạo điều kiện cho các nhà ĐTNN thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có một khoản lợi nhuận hợp lý.
- Hình thức cho thuê - nâng cấp - kinh doanh công trình (Lease - Develop - Operate: LDO)
Nước chủ nhà cho thuê công trình, nhà ĐTNN nâng cấp và khai thác, kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định sau đó sẽ chuyển giao cho nước chủ nhà
- Hình thức xây dựng - cho thuê - chuyển giao (Build - Lease - Transfer: BLT)
Nhà đầu tư xây dựng công trình, tiến hành hoạt động kinh doanh thông qua hình thức cho thuê công trình trong một thời gian nhất định và sau đó chuyển giao cho nước chủ nhà.
- Hợp đồng phân chia sản phẩm (Production Sharing Contract- PSC)
Nhà đầu tư nước ngoài bỏ 100% vốn để tìm kiếm, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở nước sở tại. Nếu tìm và khai thác được thì phân chia theo nguyên tắc: Nước chủ nhà được hưởng 50- 70% tiền bán sản phẩm đối với mỏ có trữ lượng lớn. Những mỏ có trữ lượng nhỏ thì nước chủ nhà được hưởng 30-40% tiền bán sản phẩm. Nếu không tìm thấy hoặc không đủ sản lượng công nghiệp để khai thác thì nhà ĐTNN chịu rủi ro 100%.
- Hình thức hợp đồng cấp giấy phép công nghệ và quảnlý:
Là thoả thuận ký kết giữa nhà ĐTNN và nước sở tại trong đó chủ sở hữu bằng phát minh (thường là bên nước ngoài) cung cấp bằng phát minh với sự cố vấn thêm về kỹ thuật, bí quyết công nghệ, kỹ năng quản lý. Ngược lại, việc thanh toán được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau (phí cả gói, % lợi nhuận, tỷ lệ % giá bán hàng, ưu tiên mua hàng với giá ).
II.Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Tính tất yếu khách quan của FDI
Trong xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế giữa hai bên hay giữa nhiều quốc gia là một xu hướng mang tính quy luật khách quan. Mỗi quốc gia đều phải đặt mình trong bối cảnh thế giới, từ đó dựa trên cơ sở lợi thế so sánh mà khai thác triệt để thế mạnh của mình nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Để có thể tận dụng được lợi thế so sánh, các quốc gia đều phải dựa vào các nguồn lực.
Theo các nhà kinh tế học cổ điển, nguồn gốc của sự tăng trưởng được chứng minh thông qua hàm sản xuất. Hàm sản xuất nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của yếu tố đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động , tài nguyên và khoa học công nghệ
Y=f(K, L, R. T)
Trong đó:
Y: Đầu ra ( chẳng hạn GDP )
K: Vốn sản xuất.
L: Lượng lao động.
T: Khoa học công nghệ.
R: Tài nguyên thiên nhiên (đất đai...)
Vốn đầu tư là một yếu tố cần thiết cho việc mở rộng quy mô và cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế xã hội. Sự thiếu vốn và kỹ thuật cao sẽ làm cho các quốc gia rơi vào vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo, đó là:
Thu nhập bình quân thấp
Năng suất thấp
Tiết kiệm và đầu tư thấp
Tăng trưởng chậm
Đây chính là cái ngưỡng mà các nước đang phát triển phải vượt qua để đưa đất nước tiến kịp với sự phát triển kinh tế thế giới. Khâu đột phá để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn chính là việc tạo ra mức sản lượng và nguồn thu nhập ngày càng tăng. Do vậy, yếu tố cần thiết và quan trọng nhất là vốn và kỹ thuật. Bởi các nước đang phát triển có nguồn lao động dồi dào, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, thị trường tiêu thụ khá lớn. Với năng lực hiện có, các nước này không thể tự giải quyết vấn đề mà đòi hỏi phải có sự tác động từ môi trường bên ngoài để tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế ở mức cao. Cụ thể, môi trường bên ngoài chính là các nguồn lực, nguồn lực này bao gồm các hình thức: ODA, FPI, FDI. Trong đó, theo các nước đang phát triển: "Việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp chỉ giải quyết được nguồn vốn đang khan hiếm cho các quốc gia, nó chỉ dừng lại ở mức giới hạn mua cổ phiếu trái phiếu của công ty. Đặc biệt là nó sẽ gây ra hiện tượng tháo lui đầu tư mỗi khi nền kinh tế có dấu hiệu chững lại. Nó sẽ thúc đẩy thêm sự khủng hoảng tài chính tiền tệ của mỗi quốc gia". Như vậy, hình thức này chỉ thực đối với những nước có nền kinh tế khá mạnh và có thị trường chứng khoán phát triển. Bên cạnh đó, nguồn ODA là các khoản vốn vay phải trả, FDI là khoản vốn "vay" nhưng không phải trả bằng vốn cơ bản mà là trả cho người nước ngoài quyền tự kiếm lấy lợi nhuận để có thể thu hồi vốn và có lãi ngay trên mảnh đất mà họ bỏ vốn đầu tư.
Trong một thế giới biến đổi nhanh như hiện nay, giải pháp tốt nhất là tăng khả năng huy động và sử dụng nguồn lực từ bên ngoài để nâng cao năng lực đầu tư cho nền kinh tế. Trên thực tế, việc huy động FDI là tận dụng điều kiện khách quan mà thế giới tạo ra, thúc đẩy thực hiện thành công chiến lược "rượt đuổi" nhờ "mượn sức" của những nước đi trước. Do vậy, việc huy động và sử dụng nguồn vốn FDI mang tính tất yếu khách quan đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
2. Tác động của FDI.
Hoạt động FDI cũng có những mặt tích cực và những mặt tiêu cực, để tận dụng được những ưu điểm và hạn chế được những nhược điểm, chúng ta cần xem xét tác động của FDI đối với nền kinh tế như thế nào, qua đó thấy được FDI có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước và khẳng định thêm tính tất yếu của việc thu hút và sử dụng FDI.
2.1 Tác động tích cực
- FDI tạo nguồn vốn bổ xung quan trọng.
Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải có vốn. Vốn đầu tư là nguồn đầu vào quan trọng, thiếu vốn mọi hoạt động kinh tế - xã hội sẽ bị ngưng trệ, những lĩnh vực cần nhiều ưu tiên không được đáp ứng đầy đủ. Nguồn vốn đầu tư bao gồm: vốn trong nước và vốn ngoài nước. Đối với các nước đang phát triển khả năng tích luỹ còn thấp, thị trường vốn trong nước còn yếu và gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với thị trường bên ngoài, nguồn vốn ĐTNN có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế. Huy động vốn FDI góp phần tăng thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển, bổ xung vào lượng vốn đang bị thiếu hụt mà không
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1597.doc