Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng khẳng định tầm quan trọng và có những đóng góp nhất định đối với công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia. Vốn ngân hàng đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp cũng như đem lại những đóng góp tích cực cho ngân sách Nhà nước.
Đóng vai trò là một ngân hàng thương mại đô thị đa năng, ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm, góp phần vào sự phát triển của ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Chiến lược kinh doanh của VPBank luôn tập trung vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ gia đình và các cá nhân.
Chính vì vậy, sau một thời gian thực tập tại chi nhánh VPBank Hà Nội, chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) chi nhánh Hà Nội” mong muốn góp phần nhỏ bé trong việc đánh giá tổng quan quá trình cho vay DNVVN của VPBank Hà Nội.
Chuyên đề tốt nghiệp được chia làm ba chương:
+ Chương 1: Cơ sở lý luận về cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
+ Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh VPBank Hà Nội
+ Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh VPBank Hà Nội
83 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DNVVN
:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DN
:
Doanh nghiệp
NH
:
Ngân hàng
NHTM
:
Ngân hàng thương mại
NHNN
:
Ngân hàng Nhà nước
NHTƯ
:
Ngân hàng Trung ương
CP
:
Chính phủ
NĐ
:
Nghị định
TNHH
:
Trách nhiệm hữu hạn
TCTD
:
Tổ chức tín dụng
TSCĐ
:
Tài sản cố định
TSLĐ
:
Tài sản lưu động
DS
:
Doanh số
TĐTS
:
Thẩm định tài sản
CN
:
Công nghiệp
XD
:
Xây dựng
TM
:
Thương mại
DV
:
Dịch vụ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Một số yếu tố cơ bản trong quá trình quyết định cho vay 21
Bảng 2.1. Vị trí của VPBank trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần 33
Bảng 2.2. Một số chỉ tiêu cơ bản của chi nhánh VPBank Hà Nội 34
Biểu đồ 2.1. Vốn huy động của VPBank 36
Bảng 2.3. Cơ cấu vốn huy động của chi nhánh VPBank Hà Nội 37
Bảng 2.4. Cơ cấu dư nợ cho vay 2005-2007 của VPBank 38
Biểu đồ 2.2. Dư nợ cho vay của chi nhánh VPBank Hà Nội 39
Bảng 2.3. Chỉ tiêu hoạt động dịch vụ của VPBank chi nhánh Hà Nội 40
Biểu đồ 2.3. Doanh số cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của VPBank Hà Nội 43
Biểu đồ 2.4. Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn 44
tại VPBank Hà Nội 44
Bảng 2.4. Doanh số cho vay và số lượng khách hàng 44
Bảng 2.5. Doanh số và dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ 46
tại VPBank Hà Nội 46
Bảng 2.6. Tỷ trọng cho vay DNVVN tại chi nhánh VPBank Hà Nội 46
Biểu đồ 2.6. Cơ cấu cho vay DN theo quy mô tại chi nhánh VPBank Hà Nội 48
Bảng 2.9. Dư nợ cho vay DNVVN phân theo kì hạn tại chi nhánh VPBank Hà Nội 50
Biểu đồ 2.7. Dư nợ cho vay DNVVN tại VPBank Hà Nội 50
Bảng 2.11. Tỷ lệ nợ quá hạn đối với cho vay DNVVN tại chi nhánh VPBank Hà Nội 53
Bảng 2.12. Phiếu xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 56
Bảng 2.12. Bảng đánh giá xếp hạng rủi ro 56
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày càng khẳng định tầm quan trọng và có những đóng góp nhất định đối với công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia. Vốn ngân hàng đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp cũng như đem lại những đóng góp tích cực cho ngân sách Nhà nước.
Đóng vai trò là một ngân hàng thương mại đô thị đa năng, ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và sản phẩm, góp phần vào sự phát triển của ngành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Chiến lược kinh doanh của VPBank luôn tập trung vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ gia đình và các cá nhân.
Chính vì vậy, sau một thời gian thực tập tại chi nhánh VPBank Hà Nội, chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) chi nhánh Hà Nội” mong muốn góp phần nhỏ bé trong việc đánh giá tổng quan quá trình cho vay DNVVN của VPBank Hà Nội.
Chuyên đề tốt nghiệp được chia làm ba chương:
+ Chương 1: Cơ sở lý luận về cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
+ Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh VPBank Hà Nội
+ Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh VPBank Hà Nội
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Sự xuất hiện của các ngân hàng chỉ đơn thuần xuất phát từ việc những người đổi tiền, thường ngồi ở bàn hoặc ở một cửa hiệu nhỏ của trung tâm thương mại, giúp các nhà du lịch đến thành phố đổi ngoại tệ lấy bản tệ và chiết khấu thương phiếu giúp các nhà buôn có vốn kinh doanh. Khi xã hội ngày càng phát triển, thương mại và dịch vụ cũng phát triển theo thì nhu cầu về tiền ngày càng lớn. Lúc này ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và là nơi cung cấp tiền cho những người cần tiền.
Khái niệm về ngân hàng có thể được đưa ra dựa trên nhiều cách tiếp cận khác nhau. Thông thường, khái niệm ngân hàng thường được hiểu thông qua loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Trên thực tế, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chức năng của ngân hàng trong việc cung cấp các loại hình dịch vụ ngày càng thay đổi. Đối tượng khách hàng mà ngân hàng cung cấp dịch vụ được mở rộng nhiều hơn và tập trung hơn nhằm cạnh tranh với các đối thủ lớn như các công ty bảo hiểm, công ty môi giới chứng khoán…Tuy nhiên, khái niệm ngân hàng có thể được hiểu một cách chung nhất như sau:
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Trong đó, ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng, đó là huy động vốn và sử dụng vốn. Có thể nói, ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, tập trung vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vốn vào nơi khan hiếm.
Hiện nay ở mỗi quốc gia đều có định nghĩa khác nhau về NHTM. Ở Mỹ, NHTM là một công ty chuyên doanh cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động của ngành dịch vụ tài chính. Ở Pháp, NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Trong khi đó ở Ấn Độ, NHTM là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư. Còn ở Việt Nam, theo Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ban hành ngày 23/05/1990, tại khoản 1 điều 1 quy định :
"Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, các ngân hàng càng thể hiện rõ tầm quan trọng trong quá trình nâng cao hiệu quả và thúc đẩy phát triển nền kinh tế ở mỗi quốc gia. Tìm hiểu về các hoạt động cơ bản của NHTM sẽ làm rõ hơn điều đó.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam, hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Có thể nói, hoạt động của NHTM phục vụ nhu cầu về vốn cho mọi tầng lớp dân cư, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Hoạt động cơ bản của ngân hàng bao gồm những hoạt động sau:
Hoạt động huy động vốn:
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức:
Nhận tiền gửi: NHTM nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
Phát hành giấy tờ có giá: NHTM phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc NHNN chấp thuận.
Vay các tổ chức tín dụng khác: hoạt động này cho phép NHTM được vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài. Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng (Interbank Market). Đây là trường hợp ngân hàng có lượng tiền gửi tại NHNN thấp và không đáp ứng được nhu cầu chi trả, khi đó, dưới sự tổ chức của NHNN, ngân hàng này sẽ được vay của ngân hàng khác có lượng tiền gửi dư thừa tại NHNN. Ngoài ra các ngân hàng cũng có thể cho vay trực tiếp lẫn nhau mà không thông qua thị trường liên ngân hàng. Phương thức này rất linh hoạt giúp các NHTM cân đối vốn một cách kịp thời. Tuy nhiên quá trình vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Các ngân hàng phải hoạt động hợp pháp.
Thực hiện việc cho vay và đi vay trên cơ sở hợp đồng tín dụng.
Vốn vay phải có sự đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của NHTƯ.
Vay vốn ngắn hạn của NHTƯ: đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Các NHTM trong trường hợp thiếu khả năng chi trả hoặc thiếu hụt dự trữ tạm thời có thể vay NHTƯ. Một vài hình thức cho vay của NHTƯ đối với NHTM:
Tái cấp vốn.
Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu các giấy tờ có giá ngắn hạn khác…
Cho vay có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác…
Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHTƯ.
Hoạt động tín dụng
Theo điều 20, khoản 8, Luật các tổ chức tín dụng 1997, hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Như vậy có thể hiểu, tín dụng là quan hệ vay mượn, bao gồm cả việc đi vay và cho vay. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với một chủ thể nhất định như ngân hàng thì tín dụng ngân hàng bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Có thể nói, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các hoạt động của NHTM.
Các phương thức cho vay của NHTM rất đa dạng. Nếu căn cứ theo thời hạn cho vay, NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức: cho vay ngắn hạn và cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống. Nếu căn cứ theo tài sản đảm bảo, cho vay lại bao gồm cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không cần tài sản đảm bảo. Cho vay không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng thường xuyên có tình hình tài chính minh bạch, ít xảy ra nợ nần kéo dài, các khoản vay tương đối nhỏ so với vốn của người đi vay. Bên cạnh đó, nếu căn cứ theo mức độ rủi ro thì cho vay lại gồm các khoản vay lành mạnh và các khoản vay có vấn đề. Các khoản cho vay lành mạnh là các khoản vay đảm bảo khả năng thu hồi nợ cao. Trong khi đó, các khoản cho vay có vấn đề là khoản vay có những dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng gặp thiên tai, trì hoãn nộp báo cáo tài chính… Cách phân loại cho vay này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản vay, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Khi tiến hành cho vay, ngân hàng phải lập hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện cho vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác.
Hoạt động dịch vụ
Ngân hàng thương mại được phép:
Cung ứng các phương tiện thanh toán.
Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN.
Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế phải được NHNN cho phép.
Trên đây là những hoạt động cơ bản nhất của NHTM. Trong số các hoạt động đó, cho vay là hoạt động phong phú và đa dạng với nhiều hình thức khác nhau. Việc áp dụng từng loại cho vay ra sao? Căn cứ vào đâu để phân loại cho vay và cho vay như thế nào để đảm bảo chất lượng các khoản vay? Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại sẽ trả lời cho những câu hỏi trên.
1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Đối với hầu hết các ngân hàng, cho vay thường chiếm phần lớn giá trị tổng tài sản và tạo ra 1/2 đến 2/3 thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng chính là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng. Tình trạng khó khăn về tài chính của các ngân hàng thường bắt nguồn từ các khoản cho vay khó đòi. Có nhiều cách để phân loại các hình thức cho vay tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng.
Căn cứ vào mục đích cho vay
Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm, xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, nhiên liệu, lao động…
Cho vay du học, cho vay mua xe: là loại cho vay đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
Căn cứ vào thời hạn cho vay
Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn: thời hạn cho vay từ 12 tháng đến 60 tháng, cho vay trung hạn được dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và tối đa có thể lên đến 20 năm hay 30 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Cho vay không có đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào mức độ tín nhiệm khách hàng.
Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo như thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Có thể nói, cho vay là hoạt động không thể thiếu của các ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay của các ngân hàng có mối liên hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế. Thông qua các khoản cho vay, ngân hàng đã góp phần hỗ trợ các cá nhân, các doanh nghiệp nâng cao khả năng sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động cho vay, ngân hàng sẽ tiến hành các biện pháp nhằm bảo đảm tiền vay:
Kiểm tra thực tế của tài sản bảo đảm tiền vay.
Phân tích thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay.
Khi thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay nên lưu ý một số vấn đề có liên quan sau:
Các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được ngân hàng lưu giữ cho đến khi khách hàng vay trả hết nợ gốc và lãi.
Các tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiểm, ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm trước khi nhận làm tài sản bảo đảm tiền vay.
Tài sản bảo đảm có thể do ngân hàng giữ, có thể giao cho người vay giữ nhưng có sự kiểm tra, giám sát của ngân hàng.
Bên cạnh đó hoạt động cho vay cũng phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định.
Nguyên tắc cho vay: một trong những điều quan trọng nhất trong hoạt động cho vay của NHTM đó là tuân thủ theo nguyên tắc cho vay. Việc vay vốn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và tạo điều kiện cho ngân hàng cấp tín dụng và thu lãi. Tuy nhiên, quá trình cho vay đòi hỏi ngân hàng phải tuân theo những chuẩn mực nhất định, đảm bảo hai nguyên tắc cơ bản sau:
+ Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng: Việc bảo đảm sử dụng vốn đúng mục đích của khách hàng nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Do đó về phía ngân hàng, khi tiến hành cho vay cần có những biện pháp để tìm hiểu rõ mục đích vay vốn cũng như quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Đối với khách hàng doanh nghiệp, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay đồng thời giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ củng cố được uy tín và nâng cao mối quan hệ vay vốn với ngân hàng sau này.
+ Hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn: Đây là nguyên tắc xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay. Nguyên tắc này đảm bảo phương châm hoạt động của ngân hàng là “đi vay để cho vay”. Đại đa số ngân hàng sử dụng các khoản tiền gửi của khách hàng để cho vay. Do đó, sau một thời gian cho vay nhất định, khách hàng vay phải hoàn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn để ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng gửi tiền.
Việc tuân theo nguyên tắc cho vay sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được rủi ro, nâng cao khả năng an toàn trong quá trình cho vay. Trong bất kì một hoạt động cho vay nào, trong đó có hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc tuân thủ nguyên tắc cho vay cũng là yêu cầu hàng đầu của mỗi NHTM.
1.2. Hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ở các quốc gia trên thế giới hiện nay, dù là những nước đang phát triển hay những nước phát triển, số lượng các DNVVN ngày càng tăng lên đáng kể. Theo Cơ quan quản lý DNVVN thì DNVVN chiếm tới 90 % số lượng doanh nghiệp trên thế giới và 40 – 50 % GDP của các nước. Tại khu vực APEC, số lượng DNVVN chiếm hơn 80% và sử dụng khoảng 60 % lực lượng lao động. Ở Mỹ, trên 97% tổng số hãng kinh doanh có thuê nhân công là doanh nghiệp nhỏ, tạo được 75% số việc làm mới và chiếm 96% tổng số các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa. Trong khi đó ở Việt Nam, tỷ trọng DNVVN chiếm khoảng trên 95 % trong tổng số hơn 300000 các doanh nghiệp được thành lập. Số lượng DNVVN tăng bình quân mỗi năm khoảng 10% và đây là bộ phận năng động, có hiệu quả nhất trong nền kinh tế. Hiện nay, hoạt động của các DNVVN đóng góp khoảng 30% GDP, 32% tổng vốn đầu tư và sử dụng trên 90% lực lượng lao động của Việt Nam.
Tuy nhiên, mỗi quốc gia khác nhau lại có những quan điểm khác nhau về DNVVN. Tại Hàn Quốc, tiêu chí để xác định DNVVN có những điểm khác biệt. Ở quốc gia này, khái niệm về DNVVN đề cập cả hai tiêu chí là định lượng và định tính. Tiêu chí định lượng quan tâm đến lượng lao động, lượng tiền vốn thu được từ bán cổ phiếu và doanh thu của doanh nghiệp.Tiêu chí định tính quan tâm về sự độc lập trong kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ đối với các hãng và tập đoàn lớn. Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ, số lao động tối thiểu là 50 người. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, chế tạo máy móc, xây dựng hoặc vận tải, số lao động chỉ cần tối đa là 300 người, và đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành công nghiệp khác thì chỉ cần ít hơn 50 lao động là đã có thể coi là một DNVVN. Còn tại Úc, DNVVN là doanh nghiệp có số lượng công nhân tối đa không vượt quá 300, còn tại Mỹ là không quá 1000 công nhân. Trong khi đó theo tiêu chí của Ngân hàng thế giới (World Bank), doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Và theo Liên minh Châu Âu, DNVVN là doanh nghiệp có số lượng công nhân không vượt quá 250 người. Bên vạnh đó, khái niệm DNVVN cũng có sự khác nhau giữa các nước trong cùng một khu vực. Tại Nam Phi, DNVVN là doanh nghiệp có từ 1 đến 500 công nhân. Tại Chi – Lê và Colombia con số đó là từ 11 đến 200. Trong khi đó tại Mê-hi-cô thì một doanh nghiệp có 500 công nhân vẫn được coi là DNVVN.
Đối với Việt Nam, căn cứ theo nghị định 90/2001/NĐ-CP, DNVVN được hiểu là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Mặc dù hiện nay chưa có khái niệm đồng nhất giữa các quốc gia về DNVVN, tuy nhiên các doanh nghiệp này vẫn thể hiện những đặc điểm chung nhất.
1.2.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bên cạnh những đặc điểm của doanh nghiệp nói chung như: mang chức năng sản xuất kinh doanh, tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cơ bản bên cạnh các mục tiêu xã hội, phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển, DNVVN cũng mang những đặc điểm khác.
Thứ nhất, DNVVN có số lượng đông, hình thức hoạt động đa dạng và phong phú. Sự hình thành và phát triển của các DNVVN đang trở thành xu hướng tất yếu không chỉ ở các nước phát triển mà cả ở các nước đang phát triển. Tại Việt Nam, từ năm 2001 đến tháng 6/2008 đã có 285.900 doanh nghiệp, chủ yếu là các DNVVN đã đăng ký mới với số vốn đăng ký 1.233.000 tỷ đồng, đưa tổng số các doanh nghiệp trong cả nước lên 349.300 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký trên 1.389.000 tỷ đồng. Năm 2008 ước tính cứ 243 người có 1 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh.
Thứ hai, DNVVN đóng góp và sự tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập dân cư. Nếu như các doanh nghiệp lớn thường không có mặt ở các địa phương khó khăn thì DNVVN lại có mặt ở khắp mọi nơi và trở thành một nguồn lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương cũng như quốc gia. Ở Việt Nam, DNVVN cũng là nhân tố chính giảm đói nghèo, đặc biệt tại khu vực nông thôn, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Thứ ba, DNVVN có vốn đầu tư ban đầu thấp, thu hồi vốn nhanh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều đó góp phần đảm bảo tính năng động cho nền kinh tế. Với quy mô kinh doanh gọn nhẹ, vốn nhỏ, DNVVN có nhiều khả năng chuyển đổi mặt hàng nhanh phù hợp với nhu cầu thị trường mà ít gây biến động lớn, ít chịu ảnh hưởng và có khả năng phục hồi nhanh sau những cuộc khủng hoảng kinh tế trên góc độ kinh tế quốc gia. Số lượng loại hình doanh nghiệp này gia tăng sẽ góp phần tạo điều kiện đổi mới công nghệ, thúc đẩy phát triển ý tưởng và kỹ năng mới, thúc đẩy sự đầu tư giữa các nền kinh tế trong và ngoài khu vực. Chính vì thế, DNVVN đã góp phần trong việc thay đổi cấu trúc của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên linh hoạt, dễ thích ứng với những biến động của kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đối với nền kinh tế, hiện nay các DNVVN ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng cũng thể hiện những đặc điểm mang tính tiêu cực. Đây là những thách thức lớn đối với các quốc gia hiện nay. Có thể kể đến một vài đặc điểm như sau:
Công nghệ sản xuất còn lạc hậu, sức cạnh tranh còn thấp. Các DNVVN hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng máy móc thiết bị cũ và lạc hậu. Tốc độ đổi mới các thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp quá chậm và không có sự đồng bộ. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7 % so với 20 % của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Bên cạnh đó, do thói quen tư duy và hạn chế về đầu tư, các DNVVN thường đầu tư dần, do đó các thiết bị máy móc trở nên chắp vá. Kết quả là năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, chi phí đầu vào cao, giá thành khó cạnh tranh.
Nguồn nhân lực còn khá non trẻ trong lĩnh vực linh doanh. Chủ các DNVVN hiện nay còn thiếu trình độ chuyên môn và kiến thức về quản lý. Kết quả điều tra về trình độ của các chủ doanh nghiệp nhỏ cho thấy: đa số đã có trình độ đại học và cao đẳng chiếm 42,57%; trình độ trung cấp chiếm 21,3 %; trình độ trên đại học chỉ chiếm 4,95%; số còn lại là công nhân kỹ thuật hoặc được đào tạo theo kiểu kèm cặp, truyền nghề chiếm tỷ lệ khá cao: 31,2%. Bên cạnh đó, phần lớn các chủ doanh nghiệp chưa qua các khoá đào tạo chính quy mà chỉ theo học các lớp đào tạo ngắn ngày (chiếm 30,2%), đại bộ phận quản lý bằng kinh nghiệm (43,56 %). Với thực trạng nguồn nhân lực như thế sẽ gây khó khăn trong vấn đề mở rộng và tiếp nhận trình độ công nghệ hiện đại.
Đặc điểm của DNVVN bên cạnh những mặt bất lợi vẫn có những thuận lợi. Đây chính là yếu tố thu hút các ngân hàng thương mại hiện nay tiến hành hoạt động cho vay.
1.2.2. Hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
NHTM có thể tiến hành cho vay với nhiều đối tượng khách hàng như các cá nhân, các DN…Tuy nhiên, tùy theo từng đối tượng vay vốn, khái niệm cho vay có thể được hiểu theo những khía cạnh khác nhau. Hiện nay, trong số các đối tượng khách hàng của NHTM thì DNVVN là đối tượng khách hàng có nhiều tiềm năng nhất. Ưu điểm của DNVVN không chỉ là sự gia tăng ngày càng lớn về số lượng mà còn là những đóng góp cho sự phát triển kinh tế và tăng thu nhập dân cư. Vậy cho vay DNVVN là gì?
Khái niệm cho vay DNVVN có thể hiểu một cách khái quát là hình thức cho vay, theo đó ngân hàng thương mại giao cho doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Khái niệm cho vay DNVVN là cơ sở trong việc phân loại các phương thức cho vay cũng như xác định đối tượng khách hàng vay vố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3184.doc.doc