Tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), điều đó có nghĩa là chúng ta đã thực sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hàng hóa của Việt Nam đâ được nhiều nước trên thế giới biết đến, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao và có nhiều triển vọng. Tuy nhiên, nếu so với các nước khác trong khu vực và nhất là so với Trung Quốc, hàng hóa của chúng ta vẫn còn rất yếu khi cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Trước tình hình đó, các hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) được triển khai mạnh mẽ nhằm tìm kiếm thị trường, tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Hoạt động XTTM đã thể hiện vai trò quan trọng của mình, điều này được thể hiện trong các chính sách ngoại thương của Chính phủ từ nay đến năm 2010. Các tổ chức XTTM một mặt duy trì hoạt động tại các thị trường truyền thống, một mặt tịch cực đẩy mạnh hoạt động tại các thị trường lớn và tiềm năng, hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích cho nến kinh tế Việt Nam. Một trong những thị trường được Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp quan tâm nhất hiện nay chính là thị trường Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ không phải là một thị trường xa lạ đối với hàng hóa Việt Nam, chúng ta đã có những mặt hàng được biết đến trên thị trường này như hâng thủy sản chế biến, chè, cà phê. nhưng đó vẫn chỉ là những con số nhỏ bé so với quy mô rộng lớn của thị trường Hoa Kỳ. Với tình hình hiện nay, khi Hoa Kỳ đã traon quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam, chúng ta đang đứng trước cơ hội mở rộng quan hệ thương mại với một trong những thị trường hấp dẫn nhất thế giới. Chính vì thế, hoạt động XTTM để đưa hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ cảng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là lý do em lựa chọn đề tài " Hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động XTTM của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp làm tăng hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới.
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xúc tiến thương mại và yêu cầu của hoạt động xúc tiến thương mại ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng phát triển và giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Hoa Kỳ.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động XTTM nói chung và hoạt động XTTM tại thị trường Hoa Kỳ nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu:
Bài viết chủ yếu tập trung vào các hoạt động XTTM mà Việt Nam thực hiện tại thị trường Hoa Kỳ sau khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực (11/2001) cho đến nay.
Phương pháp nghiên cứu: dựa trên các quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các biện pháp thông kê, sử dụng số liệu theo kết quả điều tra và công bố của các Bộ, ngành có liên quan
60 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), điều đó có nghĩa là chúng ta đã thực sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hàng hóa của Việt Nam đâ được nhiều nước trên thế giới biết đến, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao và có nhiều triển vọng. Tuy nhiên, nếu so với các nước khác trong khu vực và nhất là so với Trung Quốc, hàng hóa của chúng ta vẫn còn rất yếu khi cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Trước tình hình đó, các hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) được triển khai mạnh mẽ nhằm tìm kiếm thị trường, tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Hoạt động XTTM đã thể hiện vai trò quan trọng của mình, điều này được thể hiện trong các chính sách ngoại thương của Chính phủ từ nay đến năm 2010. Các tổ chức XTTM một mặt duy trì hoạt động tại các thị trường truyền thống, một mặt tịch cực đẩy mạnh hoạt động tại các thị trường lớn và tiềm năng, hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích cho nến kinh tế Việt Nam. Một trong những thị trường được Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp quan tâm nhất hiện nay chính là thị trường Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ không phải là một thị trường xa lạ đối với hàng hóa Việt Nam, chúng ta đã có những mặt hàng được biết đến trên thị trường này như hâng thủy sản chế biến, chè, cà phê... nhưng đó vẫn chỉ là những con số nhỏ bé so với quy mô rộng lớn của thị trường Hoa Kỳ. Với tình hình hiện nay, khi Hoa Kỳ đã traon quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam, chúng ta đang đứng trước cơ hội mở rộng quan hệ thương mại với một trong những thị trường hấp dẫn nhất thế giới. Chính vì thế, hoạt động XTTM để đưa hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ cảng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là lý do em lựa chọn đề tài " Hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động XTTM của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp làm tăng hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới.
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xúc tiến thương mại và yêu cầu của hoạt động xúc tiến thương mại ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua.
Chương 3: Phương hướng phát triển và giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Hoa Kỳ.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động XTTM nói chung và hoạt động XTTM tại thị trường Hoa Kỳ nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu:
Bài viết chủ yếu tập trung vào các hoạt động XTTM mà Việt Nam thực hiện tại thị trường Hoa Kỳ sau khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực (11/2001) cho đến nay.
Phương pháp nghiên cứu: dựa trên các quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các biện pháp thông kê, sử dụng số liệu theo kết quả điều tra và công bố của các Bộ, ngành có liên quan
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xúc tiến thương mại và yêu cầu của hoạt động xúc tiến thương mại ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.1 Cơ sở lý luận về hoạt động xúc tiến thương mại
1.1.1 Khái niệm xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại (XTTM) theo quan điểm truyền thống là hoạt động trao đổi và hỗ trợ trao đổi thông tin giữa bên bán và bên mua, hoặc qua khâu trung gian, nhằm tác động tới thái độ và hành vi buôn bán, qua đó thúc đẩy việc mua bán và trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Theo quan điểm này, xúc tiến thương mại gồm các hoạt động sau:
- Hoạt động thông tin thương mại và nghiên cứu thị trường.
- Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, triển lãm và khuyến mại hàng hóa và dịch vụ.
- Tổ chức và tham gia các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài.
- Đón tiếp và tổ chức cho các đoàn thương mại và thương nhân nước ngoài vào khảo sát thị trường nội địa
- Đại diện thương mại tại nước ngoài.
Theo giáo trình "Lý luận và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh" của trường Đại học Kinh tế quốc dân thì: XTTM là các biện pháp và nghệ thuật mà các nhà kinh doanh dùng để thông tin về hàng hóa, tác động tới người mua, lôi kéo họ về phía mình và các biện pháp hỗ trợ bán hàng. Theo quan điểm này, XTTM gồm có ba nội dung chính: Quảng cáo; các hoạt động yểm trợ và xúc tiến bán hàng.
Theo quan điểm của Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) thì XTTM là tấ cả các biện pháp có thể tác động, hỗ trợ, khuyến khích phát triển thương mại.
Trong các quan niệm trên thì quan niệm của ITC là quan niệm hiểu theo nghĩa rộng và khá toàn diện trên cả tầm vĩ mô, vi mô với 3 chủ thể tham gia chủ yếu là: Chính phủ, các tổ chức hoạt động XTTM và các doanh nghiệp. Còn các quan niệm khác vẫn hiểu XTTM theo nghĩa hẹp tức là vẫn coi hoạt động XTTM là 1 trong 4p của marketing. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì không thể giải quyết được những vấn đề đặt ra hiện nay của hoạt động thương mại như sự tăng trưởng bền vững của thương mại làm động lực cho sự phát triển kinh tế, việc thúc đẩy xuất khẩu của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hoá… Do vậy trong điều kiện hiện nay nên hiểu XTTM theo quan niệm của ITC là phù hợp với thực tế đang có nhiều biến động.
Bên cạnh khái niệm về XTTM như đã nêu ở trên, có rất nhiều khái niệm về các hoạt động hỗ trợ tương tự như: xúc tiến xuất khẩu, phát triển thương mại, thuận lợi hóa thương mại... Các hoạt động này trong một số hoàn cảnh có thể hiểu giống như XTTM nhưng về cơ bản, XTTM là một khái niệm mang ý nghĩa rộng và việc áp dụng khái niệm nào là theo quan điểm của từng quốc gia hoặc tổ chức thực hiện hoạt động XTTM.
1.2 Yêu cầu của hoạt động XTTM ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện này, theo quan điểm của Việt Nam, XTTM được hiểu theo quan điểm truyền thống, nghĩa là chỉ bao gồm các hoạt động trực tiếp thúc đẩy bán hàng, diễn ra ở khâu cuối cùng của quy trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Luật Thương mại Việt Nam định nghĩa hoạt động XTTM chỉ bao gồm hoạt động quảng cáo, hội chợ triển lãm và khuyến mại.
Nhưng kể từ tháng 11/2006, khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hoạt động XTTM của chúng ta cần đáp ứng một số yêu cầu để phù hợp với hòa cảnh mới, đó là:
Hoạt động XTTM phải được coi là một bộ phận cấu thành đồng bộ, không thể thiếu trong chính sách thương mại quốc gia.
Chính sách thương mại được hiểu là việc sử dụng các công cụ, biện pháp khác nhau để can thiệp và điều tiết hoạt động thương mại.
Chính sách thương mại của quốc gia được Chính phủ sử dụng để điều tiết hoạt động thị trường nội địa hoặc để phân biệt đối xử với hàng hoá dịch vụ nước ngoài, với các chủ thể nước ngoài kinh doanh trên thị trường nội địa. Do sự tác động của xu thế tự do hoá thương mại mà việc thực hiện chính sách thương mại của mỗi quốc gia phải phù hợp với luật pháp quốc tế.
Hoạt động XTTM phải chuyên nghiệp hoá và có tính chuyên môn hoá cao.
Đối với Việt Nam, XTTM còn khá mới mẻ nên tính chuyên nghiệp và chuyên môn hoá chưa cao. Do vậy, hoạt động XTTM chưa có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động xuất khẩu, đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Thực tế cho thấy hoạt động XTTM ở Việt Nam hiện nay chủ yếu mang tính tình thế và tập trung vào các nội dung như: hội chợ triển lãm, quảng cáo, khuyến mại… chứ chưa có một chiến lược, kế hoạch cụ thể, cho nên hoạt động XTTM không có mục tiêu cụ thể, chưa gắn với thị trường, chưa có các biện pháp cụ thể phù hợp…
Những việc làm trên sẽ tạo điều kiện từng bước đưa hoạt động XTTM ở Việt Nam đi vào chuyên nghiệp và có tính chuyên môn hoá cao nhằm đem lại hiệu quả cao hơn.
Hoạt động XTTM phải bảo đảm bảo tính đồng bộ, có ý nghĩa thiết thực đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Sự đồng bộ của hoạt động XTTM phải đảm bảo trên cả hai góc độ sau:
Một là, đảm bảo sự đồng bộ giữa các giải pháp trong quá trình thực hiện. Điều này có nghĩa là không nên chỉ tập trung vào các giải pháp dễ làm, các giải pháp không cần nhiều chất xám như tổ chức hội chợ triển lãm, quảng cáo… còn các giải pháp cần nhiều chất xám, khó tổ chức thực hiện như nghiên cứu thị trường, nghiên cứu phát triển sản phẩm... thì lại không làm.
Hai là, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ trong hoạt động giữa các tổ chức XTTM, giữa các dự án XTTM bởi lẽ nếu không có sự phối hợp đồng bộ trong quá trình hoạt động thì sẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí các nguồn lực của doanh nghiệp.
1.3 Chức năng, vai trò của xúc tiến thương mại.
1.3.1 Chức năng của XTTM
Mặc dù mỗi một tổ chức XTTM tùy theo hoạt động chính của mình mà có các chức năng riêng biệt, nhưng hoạt động XTTM nói chung vẫn thể hiện năm chức năng chính của mình, cụ thể là:
1.3.1.1 Xác định, phát triển sản phẩm và thị trường
XTTM có chức năng xác định một cách chính xác nhất có thể về cung xuất khẩu có sẵn hoặc sắp có, thông tin về các nhu cầu của cộng đồng xuất khẩu và tính chất của thị trường nước ngoài, các cơ hội thương mại ở thị trường nước ngoài. Các thông tin này thu thập được thông qua nghiên cứu về cung xuất khẩu và tiềm năng thị trường. Kết quả của các thông tin này được phổ biến thông qua các bản mô tả tóm tắt về sản phẩm và thị trường. Ở các nước, khuynh hướng đang phát triển là tập trung vào các nghiên cứu vì nó được xem là ngày càng quan trọng cho các quyết định về hoạt động hỗ trợ trong tương lai đối với cộng đồng xuất khẩu.
1.3.1.2 Dịch vụ thông tin thương mại
Trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu, việc thiếu thông tin về thị trường nước ngoài vẫn luôn là rào cản được thường xuyên đề cập đến trong các diễn đàn hay hội thảo về kinh doanh xuất khẩu. Có nhiều định chế về dịch vụ thông tin thương mại được lập ra như Phòng Thương mại, tổ chức CTTM và thông tin cũng đến từ nhiều nguồn. Tại một số quốc gia, việc tạo ra dịch vụ thông tin là biểu thị cho sự bắt đầu của các nỗ lực xúc tiến xuất khẩu.
1.3.1.3 Các dịch vụ hỗ trợ chuyên môn
Các dịch vụ này nhằm hỗ trợ cộng đông xuất khẩu nâng cao trình độ chuyên môn về kỹ thuật ngoại thương của họ, và nhằm đưa ra các dịch vụ cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế bằng việc cải tiến chất lượng sản phẩm và các đặc điểm, tính chất khác. Các dịch vụ này gồm nhiều các vấn đề như: thủ tục xuất khẩu, vận chuyển, vốn, tiếp thị, định giá thành và giá bán, kiểm định chất lượng, bao bì xuất khẩu, quảng cáo, các vấn đề pháp lý, xuất khẩu các dịch vụ...
Phạm vi các dịch cụ này rất rộng, tổ chức XTTM phải dựa trên một nghiên cứu kỹ lưỡng về các yêu cầu của nhà xuất khẩu để lựa chọn các dịch vị thực hiện.
1.3.1.4 Các hoạt động CTTM ở nước ngoài
Các dịch vụ XTTM tại nước ngoài bổ sung thêm sự hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu trong nước. Các hoạt đông này bao gồm việc tham gia vào các hội chợ thương mại ở nước ngoài, tổ chức các đoàn thương nhân khảo sát thị trường nước ngoài, mời đối tác nước ngoài đến thăm cơ sở sản xuất trong nước và tham dự triển lãm trong nước, v.v...
Tại nhiều quốc gia, đại diện thương mại tại nước ngoài do Bộ Ngoại giao đảm trách, trong một số it trường hợp, trách nhiệm này do Bộ Thương mại hoặc tương đương. Sự tồn tại mạng lưới các văn phòng đại diện thương mại dưới sự điều hành trực tiếp cảu tổ chức XTTM là hiếm có, ngoại trừ các tổ chức XTTM có quá trình hoạt động lâu dài và có nguồn lực tài chính dồi dào và có chiến lược mạnh hướng về xuất khẩu. Trong thực tế, có khoảng một nửa các quốc gia, các văn phòng đại diện thương mại tại nước ngoài có những liên kết trực tiếp với tổ chức XTTM. Các đại diện thương mại của tổ chức XTTM tại nước ngoài thường có chức năng riêng biệt về XTTM, trong một số rất ít trường hợp, họ cũng có liên quan đến các vấn đề như xúc tiến đầu tư và tìm nguồn nhập khẩu. Trái lại, đa số các viên chức của Bộ Ngoại giao hay Bộ Thương mại lại không có nhiệm vụ riêng cho xúc tiến xuất khẩu. Tuy nhiên, tại các quốc gia phát triển, có sự tập trung rõ ràng cho các vấn đề thương mại.
Một số it quốc gia tổ chức bộ phận thương vụ để người địa diện của các Bộ có thể liên lạc và nhận các thông tin, hướng dẫn từ tổ chức XTTM, do đó đẩy mạnh và làm cho công việc có hiệu quả hơn.
1.3.1.5 Hỗ trợ các tổ chức khác
Có nhiều chức năng, do bản chất riêng của chúng, nên được thực hiện bởi các định chế chuyên môn công và tư khác tổ chức XTTM. Tuy nhiên, do các chức năng này có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp vào các trách nhiệm xúc tiến và phát triển xuất khẩu của tổ chức XTTM, nên rất cần thiết phải được liên kết với tổ chức XTTM bằng một cơ chế thích hợp cho việc phối hợp. Vả lại, tổ chức XTTM nên hỗ trợ các hoạt động của các định chế này do có liên quan đến hoạt động xúc tiến.
Các hoạt động này gồm các chương trình huấn luyện của các định chế khác, thực hiện các chiến dịch thúc đẩy, chuẩn bị các nghiên cứu kinh tế và các báo cáo tư vấn trình Chính phủ, và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.3.2 Vai trò của XTTM
1.3.2.1 Vai trò của XTTM đối với quốc gia
Đối với nền kinh tế thị trường, XTTM có một vai trò quan trọng, nó tạo ra những thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, mang lại thu nhập cho nền kinh tế. Hoạt động XTTM ở cấp quốc gia do Chính phủ thực hiện, có ý kiến cho rằng Chính phủ chỉ nên tập trung vào việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi bằng cách ban hành các chính sách khuyến khích thương mại hoặc tiến hành các hoạt động nhằm thuận lợi hóa thương mại, còn những hoạt động XTTM trực tiếp khác nên để cho khu vực tư nhân và phi chính phủ đảm nhiệm. Lập luận này dựa trên cơ sở học thuyết kinh tế thị trường thuần túy cho rằng Nhà nước chỉ can thiệp vào thị trường khi có những thất bại thị trường hoặc khi Nhà nước làm việc có hiệu quả hơn khu vực tư nhân. Song trên thực tế, ở hầu hết tất cả các nước kể cả các nước phát triển, chính phủ đền trực tiếp tiến hành một số hoạt động XTTM, nhất là hoạt động thông tin. Nhiều người cho rằng chính phủ là tổ chức thu thập, phân tích và chuyển tải thông tin về thị trường và cơ hội kinh doanh ở nước ngoài cũng như dự đoán xu hướng và thay đổi của nó v.v... cho cả cộng đồng doanh nghiệp với chi phí thấp hơn so với khu vực tư nhân đảm nhiệm.
Mặt khác, theo quy đingj của WTO, chính phủ các nước thành viên có mức thu nhập GNP bình quân đầu người từ 1000USD trở lên không được phép trợ cấp trực tiếp cho xuất khẩu nhưng có thể trợ cấp cho hoạt động XTTM hoặc tiến hành một số hoạt động XTTM để hỗ trợ cho doanh nghiệp. Đây là nguyên nhân ngày càng nhiều quốc gia thành lập tổ chức XTTM của Chính phủ, hiện nay trên thế giới có khoảng 130 nước có tổ chức này.
Tóm lại, vai trò chủ yếu của XTTM đối với quốc gia vẫn thể hiện qua những chính sách của Chính phủ nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại. Đồng thời, việc xuất hiện các tổ chức XTTM của Chính phủ cũng khẳng đinh vai trò quan trọng không thể thiếu của XTTM đối với nền kinh tế quốc gia, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.3.2.2 Vai trò của XTTM đối với doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp, XTTM có vai trò đặc biệt quan trọng, tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh, là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Cụ thể là:
Thứ nhất, hỗ trợ và cung cấp các thông tin nghiệp vụ cần thiết và chính xác là một trong những yêu cầu bức thiết . Hiện nay, môi trường và thị trường kinh doanh đã có những thay đổi lớn, tác động đến hoạt động của doanh nghiệp và sự phát triển của xã hội. Ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới, hạn ngạch xuất nhập khẩu sẽ bị bãi bỏ cùng với các khoản thuế đánh vào hàng nhập khẩu. Điều này tạo thuận lợi lớn cho việc giao thương nhưng cũng đưa các nhà kinh doanh vào môi trường cạnh tranh gay gắt trên trường quốc tế. Các thông tin về các hiệp định thương mại, thuế quan, hàng rào phi thuế quan là rất cần thiết và hữu ích. Tuy nhiên, các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thường ít được thông tin đầy đủ. Vì thế, vai trò của xúc tiến thương mại là phải cập nhật và nắm vững thông tin để cung cấp cho doanh nghiệp một cách kịp thời và chính xác.
Thứ hai, tăng cường vai trò là cầu nối giúp doanh nghiệp nghiên cứu thị trường và tìm kiếm khách hàng. Bên cạnh môi trường kinh doanh thay đổi, thị trường kinh doanh hiển nhiên cũng thay đổi liên tục. Các yếu tố cấu tạo nên thị trường như nhu cầu của người tiêu dùng, nhà sản xuất, kênh phân phối, giao dịch, dịch vụ … hiện nay đã khác hẳn những năm trước đây. Hoạt động trong lĩnh vực xúc tiến thương mại phải nhanh nhạy với những thay đổi của thị trường, nắm bắt và dự báo xu hướng thị trường để tư vấn và hỗ trợ doanh nghiệp đạt hiệu quả. Doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Xúc tiến thương mại sẽ làm cầu nối đưa doanh nghiệp đi nghiên cứu mở rộng thị trường, giúp doanh nghiệp hiểu và thận trọng hơn khi lựa chon bạn hàng, thị trường và phương thức kinh doanh khi ký kết hợp đồng.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác huấn luyện, đào tạo nâng cao năng lực cho doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả . Internet cũng là một công cụ rất hữu ích cho doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các nhà xuất khẩu. Đây là kênh thu thập và phổ biến thông tin, công cụ bán hàng và marketing hữu hiệu. Thông qua, người ta có thể chào giá, giới thiệu sản phẩm, giao dịch,… với các công ty khác trên khắp thế giới. Nhưng trên thực tế, sử dụng công cụ này như thế nào cho hiệu quả, mang lại lợi nhuận là điều không phải doanh nghiệp, tổ chức nào cũng làm được. Do đó, vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại là tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ thương mại điện tử để doanh nghiệp có khả năng sử dụng công cụ này. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến đào tạo nghiệp vụ chuyên môn để năng cao hơn nữa khả năng và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Thứ tư, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá. Vấn đề xây dựng và phát triển thương hiệu cũng là một yêu cầu cấp thiết, khẳng định vị thế, uy tín của hàng hoá và doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực thâm nhập, duy trì và phát triển thị trường cả trong nước và nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà chúng ta còn phải cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài đầu tư và kinh doanh tại VN. Một sản phẩm mang nhãn hiệu được bảo hộ độc quyền dưới mắt người tiêu dùng thì đó là biểu tượng xác định uy tín về mặt chất lượng của sản phẩm, mặt khác nó còn khẳng định về mặt trách nhiệm của nhà cung cấp đối với người tiêu dùng. Do vậy, sức mua trên thị trường đối với những sản phẩm có thương hiệu thường lớn hơn, và ngưòi tiêu dùng sẳn sàng chi trả cao hơn những sản phẩm cùng loại mà không có thương hiệu. Nói tóm lại, chất lượng và thương hiệu của sản phẩm là điều kiện tiên quyết trong môi trường cạnh tranh. Tuy nhiên, để doanh nghiệp hiểu và bắt tay vào làm là cả một quá trình. Do đó, vai trò của xúc tiến thương mại là làm sao tư vấn, cung cấp thông tin và hướng dẫn để doanh nghiệp có nhận thức đúng đắn hơn về tầm quan trọng của thương hiệu và có sự đầu tư nhất định cho việc phát triển thương hiệu. Hiện nay, tỉnh ta việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm còn quá ít so với tiềm năng, chất lượng sản phẩm cũng chưa thật đều. Tỉnh cũng đã có nhiều chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp xây dựng và phát triển thương hiệu để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp luôn là vấn đề được quan tâm. Về vấn đề này, XTTM thể hiện vai trò của mình qua các mặt chủ yếu sau:
Một là, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp: Hoạt động XTTM ở tầm vi mô sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp bởi lẽ việc hoàn thiện các chính sách, chế độ sẽ tạo ra động lực giúp cho doanh nghiệp từng bước vươn lên trong môi trường cạnh tranh. Mặt khác, các cam kết song phương, đa phương của Chính phủ sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường ngoài nước, phát huy được những lợi thế của doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
Hai là, giúp cho doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh: Hoạt động XTTM sẽ giúp cho các doanh nghiệp có được những thông tin đầy đủ, chính xác về thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh… Trên cơ sở những thông tin đó, doanh nghiệp sẽ xử lý và đưa ra những quyết định hợp lý về lựa chọn chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả nhất nhằm giảm giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo ra năng lực cạnh tranh ngày càng mạnh hơn.
Ba là, giúp cho doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ: Hoạt động XTTM là công cụ hữu hiệu để duy trì và chiếm lĩnh thị trường cho doanh nghiệp từ đó tăng nhanh dung lượng thị trường của hàng hoá bởi lẽ hoạt động XTTM sẽ giúp cho doanh nghiệp tiếp cận được các thị trường tiềm năng, cung cấp cho khách hàng những thông tin nổi bật của hàng hoá nhằm kích thích nhu cầu của khách hàng tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ.
Bốn là, giúp cho doanh nghiệp củng cố, khẳng định được vị thế so với đối thủ cạnh tranh: Hoạt động XTTM có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp khi đã được khẳng định và có uy tín trên thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp mở rộng được thị trường tiêu thụ, nâng cao vị thế của doanh nghiệp… Bởi vậy, uy tín thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp được coi là tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Vai trò xúc tiến thương mại là cũng chính hỗ trợ doanh nghiệp nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội. Vậy, làm thế nào để hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi người làm công tác xúc tiến thương mại phải có kiến thức về kinh tế vĩ mô, giao thương quốc tế, công nghệ thông tin…;cập nhật và bổ sung kiến thức thường xuyên để nâng cao trình độ; nhận thức được những gì đang diễn ra; có óc phán đoán, tiên liệu xu hướng thị trường để có thể tư vấn một cách hữu hiệu cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định được các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của mình để linh hoạt và thích ứng khi điều kiện thị trường thay đổi. Tuy nhiên, vấn đề chính là doanh nghiệp phải năng động, tự nhận thức được những thay đổi trên thế giới, và có ý thức tự vận động để tồn tại và phát triển.
1.4 Các loại hình XTTM
1.4.1 Các chuyến thăm và làm việc của lãnh đạo Chính phủ ở nước ngoài
Đây là hoạt động XTTM ở cấp quốc gia, do các cấp lãnh đạo thực hiện nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước bằng các chuyến viếng thăm và làm việc tại nước ngoài. Thông qua các chuyến thăm và làm việc này, nhiều hiệp định thương mại hoặc các cam kết tương tự có thể được ký kết, tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ kinh tế giữa hai hay nhiều quốc gia.
1.4.2 Hội chợ triển lãm trong và ngoài nước
Hội chợ triển lãm là hoạt động phổ biến khi doanh nghiệp muốn giới thiệu sản phẩm của mình đến người tiêu dùng. Các tổ chức XTTM thường tổ chức các hội chợ triển lãm để quảng bá và giới thiệu hàng hóa Việt Nam ở thị trường nước ngoài. Đây cũng là một loại hình XTTM được các doanh nghiệp quan tâm do quy mô tổ chức lớn, tập trung nhiều loại hàng hóa và dịch vụ, dễ thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng trong khi chi phí lại thấp hơn so với quảng cáo riêng cho loại hàng hóa đó trên các phương tiện thông tin. Mặt khác, hình thức triển lãm tỏ ra phù hợp hơn với các sản phẩm mới đang trong giai đoạn thăm dò thị trường trước khi đưa ra quyết định thâm nhập thị trường đó hay không.
1.4.3 Các buổi hội thảo, diễn đàn hợp tác kinh tế
Một trong các mục đích của các buổi hội thảo, hợp tác kinh tế là thúc đẩy quan hệ thương mại, nâng cao quy mô và hiệu quả của hoạt động ngoại thương. Tại đây, các doanh nghiệp có cơ hội gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau trong vấn đề kinh doanh ở thị trường nước ngoài. Ngoài ra, trong các buổi hội thảo, các doanh nghiệp cũng có cơ hội tìm thấy đối tác kinh doanh phù hợp.
1.4.4 Các hoạt động khác
Ngoài những hình thức đã nêu ở trên, các tổ chức XTTM cũng tiến hành nhiều hoạt động nhằm phát triển cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp như: Tổ chức các buổi gặp mặt tham tán thương mại tại các nước với doanh nghiệp kinh doanh tại thị trường nước đó; tổ chức các lớp học giúp doanh nghiệp làm quen với các quy tắc quốc tế sắp được áp dụng; thành lập các tổ chức tư vấn luật pháp, cung cấp thông tin thị trường, bảo hiểm hàng hóa, các tổ chức hỗ trợ tín dụng v.v...
Tóm lại, các loại hình hoạt động XTTM là rất đa dạng và phong phú, một tổ chức XTTM thường tập trung vào một vài hoạt động phù hợp nhất với tình hình thực tế của doanh nghiệp nước mình để mang lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động XTTM, giảm chi phí cho doanh nghiệp.
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động XTTM
1.5.1 Các yếu tố khách quan
1.5.1.1 Sự quản lý của Nhà nước về hoạt động XTTM
Nhóm các yếu tố thuộc về quản lý vĩ mô là các chủ trương chính sách của Nhà nước tác động vào hoạt động XTTM. Trong mỗi điều kiện cụ thể của từng nước, từng thị trường, từng thời kỳ mà các chủ trương, chính sách của Nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động XTTM.
Các yếu tố về pháp luật chi phối mạnh mẽ hoạt độ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 124.doc