Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, đất nước đang phát triển nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh làm thước đo cho hoạt động đổi mới. Việt Nam với 70% dân số làm nghề nông, diện tích đất đai màu mỡ. Những ưu thế này đã tạo cho mặt hàng nông sản Việt Nam có lợi thế so sánh hơn so với một số nước khác trên thế giới.
Công tác xuất nhập khẩu (XNK) là một trong ba chương trình kinh tế lớn của Nhà nước mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Thực chất của xuất khẩu là mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm tạo ra ngoại tệ cần thiết để nhập khẩu vật tư kỹ thuật cho xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời thông qua công tác XNK cho phép phát huy sử dụng tốt nguồn lao động, tài nguyên của đất nước, tạo điều kiện tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống cho người lao động.
Hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta đang phát triển theo cơ chế thị trường nhiều thành phần. Trong những năm gần đây, Nhà nước cho phép các đơn vị kinh doanh được quyền XNK trực tiếp. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế khác nhau trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt.
Trong những năm gần đây quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới ngày càng được củng cố và mở rộng. Việt Nam đã rất tích cực trong việc tham gia vào các tổ chức ASEAN, AFTA và đặc biệt sự cố gắng nỗ lực để gia nhập WTO, có thể nói rằng khi tham gia vào tổ chức này thì Việt Nam có được nhiều các cơ hội song cũng gặp không ít khó khăn. Cùng với việc Mỹ bình thường hoá quan hệ và ký Hiệp định thương mại Việt-Mỹ với Việt Nam đã làm cho kinh tế đối ngoại ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Chính vì thế mà Nhà nước ta luôn coi trọng, khuyến khích và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng cho xuất khẩu.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang có xu hướng, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và nâng cao lợi ích kinh tế cho toàn xã hội nói chung. Để nâng cao khả năng xuất khẩu của Việt Nam ra thị trường thế giới thì cần phải từng bước hoàn thiện công tác xuất khẩu. Cùng với sự ra đời của cơ chế thị trường ở Việt Nam kèm theo đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế khác nhau đã khiến cho công ty AGREXPORT gặp nhiều khó khăn: nguồn hàng không đáp ứng được nhu cầu của bạn hàng, bạn hàng còn hạn chế, chất lượng hàng chưa cao, do vậy hiệu quả kinh doanh của công ty chưa còn thấp.
Vì những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “hoan thien to chuc cong tac xuat khau tai cong ty xnk nong san thuc pham ha noi – AGREXPORT”.
Kết cấu chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận cơ bản về xuất khẩu của hệ thống các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương II: Hoạt động xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội – AGREXPORT.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác xuất khẩu hàng nông sản thực phẩm của công ty XNK Nông sản Thực phẩm Hà Nội.
84 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1029 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện tổ chức công tác xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội AGREXPORT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, đất nước đang phát triển nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh làm thước đo cho hoạt động đổi mới. Việt Nam với 70% dân số làm nghề nông, diện tích đất đai màu mỡ. Những ưu thế này đã tạo cho mặt hàng nông sản Việt Nam có lợi thế so sánh hơn so với một số nước khác trên thế giới.
Công tác xuất nhập khẩu (XNK) là một trong ba chương trình kinh tế lớn của Nhà nước mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Thực chất của xuất khẩu là mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm tạo ra ngoại tệ cần thiết để nhập khẩu vật tư kỹ thuật cho xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời thông qua công tác XNK cho phép phát huy sử dụng tốt nguồn lao động, tài nguyên của đất nước, tạo điều kiện tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống cho người lao động.
Hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta đang phát triển theo cơ chế thị trường nhiều thành phần. Trong những năm gần đây, Nhà nước cho phép các đơn vị kinh doanh được quyền XNK trực tiếp. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế khác nhau trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt.
Trong những năm gần đây quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới ngày càng được củng cố và mở rộng. Việt Nam đã rất tích cực trong việc tham gia vào các tổ chức ASEAN, AFTA và đặc biệt sự cố gắng nỗ lực để gia nhập WTO, có thể nói rằng khi tham gia vào tổ chức này thì Việt Nam có được nhiều các cơ hội song cũng gặp không ít khó khăn. Cùng với việc Mỹ bình thường hoá quan hệ và ký Hiệp định thương mại Việt-Mỹ với Việt Nam đã làm cho kinh tế đối ngoại ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Chính vì thế mà Nhà nước ta luôn coi trọng, khuyến khích và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng cho xuất khẩu.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang có xu hướng, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và nâng cao lợi ích kinh tế cho toàn xã hội nói chung. Để nâng cao khả năng xuất khẩu của Việt Nam ra thị trường thế giới thì cần phải từng bước hoàn thiện công tác xuất khẩu. Cùng với sự ra đời của cơ chế thị trường ở Việt Nam kèm theo đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế khác nhau đã khiến cho công ty AGREXPORT gặp nhiều khó khăn: nguồn hàng không đáp ứng được nhu cầu của bạn hàng, bạn hàng còn hạn chế, chất lượng hàng chưa cao,…do vậy hiệu quả kinh doanh của công ty chưa còn thấp.
Vì những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “hoan thien to chuc cong tac xuat khau tai cong ty xnk nong san thuc pham ha noi – AGREXPORT”.
Kết cấu chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận cơ bản về xuất khẩu của hệ thống các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương II: Hoạt động xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội – AGREXPORT.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác xuất khẩu hàng nông sản thực phẩm của công ty XNK Nông sản Thực phẩm Hà Nội.
Chương I
Lý luận cơ bản về xuất khẩu của hệ thống các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
I. Khái niệm
Khái niệm, nhiệm vụ của công ty thương mại trong giai đoạn hiện nay
Khái niệm
Xem xét dưới hai góc độ Macro Marketing và Micro Marketing:
- Macro Marketing: Công ty thương mại được hiểu là một đơn vị kinh doanh thương mại độc lập, được tổ chức theo quan điểm phân công lao động xã hội và Marketing thương mại theo định hướng thoả mãn nhu cầu thị trường xã hội.
Một doanh nghiệp thương mại cần phải có những điều kiện để trở thành một công ty thương mại, đó chính là mức độ độc lập của các đơn vị kinh doanh trên 3 mặt:
+ Độc lập về tài sản: Mức độ chiếm hữu và tự quyết định của đơn vị về các tài sản cố định và lưu động của mình.
+ Mức độc lập về tác nghiệp: Mức chủ động và năng lực tự do vận dụng tài sản trong các quyết định dự án kinh doanh.
+ Mức độc lập về pháp luật: Mức thừa nhận và bảo hộ của pháp luật hiện hành và khả năng tự chủ tự quyết của đơn vị tham gia các đơn vị pháp luật.
- Micro Marketing: Công ty thương mại được hiểu là một chỉnh thể tổ chức và công nghệ tiếp thị bán hàng trên thị trường. Mục tiêu của nó bao gồm một tổ hợp thương mại (cửa hàng, trạm, kho…) và các cơ cấu quản trị như văn phòng quản trị trung tâm, văn phòng ban quản trị chức năng, các trung tâm điều hành các đơn vị thương mại trực thuộc.
Nhiệm vụ của công ty thương mại trong giai đoạn hiện nay
Nghiên cứu và ứng xử tối ưu với tình thế diễn biến thị trường để hình thành một sắc diện mặt hàng phù hợp với chức năng và hình thành tổ chức kinh doanh, có đầy đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường mục tiêu.
Tổ chức thu mua nắm nguồn hàng ở tất cả các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế trong phạm vi các mặt hàng kinh doanh và theo đúng quy định chính sách nhà nước.
Mở rộng nguồn hàng và thị trường tiêu thụ theo chiến lược đồng bộ. Cần chú ý rằng trong nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều nguồn cung ứng hàng hoá cho nên doanh nghiệp cần phân loại nguồn hàng, có bịên pháp tích cực để mở rộng nguồn hàng và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Đẩy mạnh tốc độ chu chuyển của hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân, tổ chức khâu mua bán và tổ chức khâu vận động hàng hoá hợp lý từ sản xuất đến tiêu dùng.
Tiết kiệm chi phí lưu thông, đáp ứng tốt mọi nhu cầu của khách hàng.
Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ thương mại, thực hiện các hoạt động của quá trình sản xuất trong lĩnh vực lưu thông.
Không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý và mạng lưới kinh doanh.
Tự tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và quản lý khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ấy, đảm bảo đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, bù đắp chi phí và thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ đối với nhà nước, xã hội và người lao động.
Bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tăng cường công tác kiểm tra, quản lý, hướng dẫn và uốn nắn kịp thời những sai lệch trong quá trình hoạt động kinh doanh của đơn vị trực thuộc.
Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường một nền sản xuất xã hội muốn có hiệu quả cao thì phải tiến hành sản xuất nhiều với chất lượng cao và giá cả phải hợp lý. Muốn vậy nền sản xuất ấy phải có sự phân công lao động xã hội. Với phân công lao động xã hội một cách mạnh mẽ hay là chuyên môn hoá sản xuất một mặt hàng nhất định sẽ tạo ra sự dư thừa trong sản xuất. Và sự dư thừa đó sẽ thúc đẩy nhu cầu trao đổi hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và ngoài nước. Thương mại quốc tế ra đời mà nòng cốt của vấn đề này là hoạt động xuất nhập khẩu (XNK).
Xuất khẩu là một hoạt động của thương mại quốc tế: được trình bày là một hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời sống kinh tế của nhân dân.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà cả chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Theo điều 52 NĐ52/1998 của Chính phủ: hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hoá.
Như vậy, cả hai khái niệm trên đều cho rằng xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh nhưng phạm vi kinh doanh vượt khỏi biên giới quốc gia hay là hoạt động buôn bán với nước ngoài. Thông qua hoạt động xuất khẩu có thể đem lại những thuận lợi to lớn cho nền sản xuất trong nước.
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai mặt thống nhất của hoạt động ngoại thương. Đó chính là bán và mua trong trao đổi quốc tế, ngay khi phân công lao động vượt ra khỏi quốc gia, ngoại thương đã ra đời và trở thành hình thức hợp tác hoá đầu tiên của phân công lao động quốc tế. Như vậy, có thể xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế quan trọng và lâu đời nhất.
Đầu tiên xuất khẩu chỉ là xuất khẩu hàng hoá hữu hình như xuất khẩu nông sản, sản phẩm công nghiệp, khoáng sản. Càng ngày, hoạt động xuất khẩu càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Cho đến nay, xuất khẩu diễn ra trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Người ta xuất khẩu từ tư liệu sản xuất đến vật phẩm tiêu dùng, từ những loại máy móc khổng lồ tới những chi tiết, linh kiện cực nhỏ, từ nguyên thô đến những sản phẩm tinh tế… Trong cơ cấu xuất khẩu đã xuất hiện cả hàng hoá vô hình như vận tải, bảo hiểm, ngân hàng,… Các hình thức xuất khẩu cũng không ngừng được mở rộng và đa dạng hoá.
Vai trò của xuất khẩu
2.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
Việt Nam đang đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu chậm phát triển. Máy móc, thiết bị, kỹ thuật và công nghệ là động lực của quá trình này. Để có thể nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại chúng ta cần một số vốn rất lớn. Số vốn này có thể được hình thành từ các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động, Nhưng chúng ta đều thấy rõ rằng vốn có được từ đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác đều phải trả. Thu từ du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ chỉ đáp ứng một phần nhỏ. Còn xuất khẩu sức lao động chủ yếu tạo công ăn việc làm chứ không phải thu ngoại tệ nên nguồn thu rất hạn chế. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Trong thực tiễn xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết với nhau vừa là kết quả vừa là tiền đề của nhau, đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cường nhập khẩu, tăng cường nhập khẩu là để mở rộng và tăng khả năng xuất khẩu. Có thể nói xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng nhập khẩu.
Với xu thế toàn cầu hoá, với chính sách mở cửa và những thành tựu bước đầu chúng ta đã đạt được, trong tương lai nguồn vốn nước ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài, các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư là người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn duy nhất để trả nợ – có thể trở thành hiện thực.
- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của công cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu với nước ta.
Có hai quan điểm về tác động của xuất khẩu với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Theo quan điểm thứ nhất: xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng cường chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ không được bao nhiêu.
Theo quan điểm thứ hai: Coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đến sản xuất thể hiện ở:
Một là xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
Hai là xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định. Khi khả năng sản xuất đã được mở rộng, thị trường trong nước trở nên nhỏ hẹp thì thị trường nước ngoài là nơi tiêu thụ, đem lại ngoại tệ. Đồng thời hướng sản xuất theo yêu cầu thoả mãn yêu cầu của thị trường đó. Tạo ra thị trường ổn định cũng có nghĩa là ổn định sản xuất.
Ba là xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Bốn là xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Vì xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại nền kinh tế nước ta.
Năm là thông qua xuất khẩu hàng hoá nội địa sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi và đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới.
Sáu là xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
Những tác động kể trên của xuất khẩu đến sản xuất đủ khẳng định quan điểm thứ hai này cần được quán triệt đối với một nền kinh tế nước ta. Chờ sản phẩm thừa ra để xuất khẩu giống như tự mình làm thui chột dần ý chí của mình vì nội lực của Việt Nam còn chưa lớn. Chỉ có tự vươn lên quyết tâm thúc đẩy sản xuất bằng cả vốn tự có lẫn sự giúp đỡ từ bên ngoài, tăng khả năng xuất khẩu và đến lượt nó những tác động của việc xuất khẩu lại tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, vừa phục vụ nền kinh tế quốc dân vừa phát huy vai trò của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Như vậy bên cạnh việc sử dụng tốt lợi thế so sánh để phát triển sản xuất, xuất khẩu còn góp phần hoàn thiện trong khâu tổ chức giảm những lãng phí không đáng có và nâng cao trình độ người lao động.
- Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu là hàng thô, nguyên liệu hoặc chỉ mới qua sơ chế. Tuy vậy cũng có được hàng triệu lao động được thu hút để sản xuất những mặt hàng này. Tới đây khi chúng ta tăng hàm lượng chế biến trong hàng xuất khẩu, cho dù có sự hỗ trợ của máy móc thì một lượng không nhỏ lao động nữa sẽ có thêm thu nhập. Đẩy mạnh xuất khẩu tham gia thị trường thế giới tức là chúng ta đã đi sâu hơn vào phân công lao động quốc tế – con đường tốt nhất để tạo việc làm cho người lao động.
Đời sống của người lao động được cải thiện dần theo thu nhập ngày càng tăng lên dựa vào đà tăng của kim ngạch xuất khẩu cả nước. Cần chú ý rằng không phải những người lao động tham gia trực tiếp vào xuất khẩu mới có thu nhập tăng lên. Những người lao động khác dù ở ngành có hay không liên quan đến xuất khẩu nếu không được hưởng các quyền lợi vật chất như lương cao thì cũng được hưởng phúc lợi xã hội do sự đóng góp của các doanh nghiệp xuất khẩu vào ngân sách Nhà nước. Nếu chỉ dựa vào những thành tựu trong nước thì đến nay, đến những năm đầu thế kỷ XXI thì chúng ta không được hưởng những phát minh khoa học như máy giặt, tủ lạnh,… Do đó cần phải nhận thức rõ vai trò của xuất khẩu, tập trung sức mạnh để đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa và xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu nhưng hiện đại phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng một phong phú của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Xuất khẩu là một hoạt động của kinh tế đối ngoại sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Xuất khẩu sẽ làm các quan hệ kinh tế phát triển. Bạn bè thế giới sẽ biết đến nước ta. Ngoài những người có nhu cầu tham quan, du lịch, tìm hiểu văn hoá, phong tục, còn có những người tiến hành tìm kiếm, thăm dò thị trường thông qua du lịch và hoạt động này sẽ làm ngành du lịch phát triển, tăng trưởng.
Khi xuất khẩu tăng, nhu cầu về vận tải, bảo hiểm tăng, quan hệ tín dụng cũng phát triển theo và đầu tư cũng gia tăng bởi bạn hàng nước ngoài thấy được khả năng phát triển của Việt Nam thông qua hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh.
Ngược lại, chính các quan hệ đối ngoại kể trên cũng tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu trong khi ngành vận tải của Việt Nam chưa lớn mạnh, ngành bảo hiểm còn non trẻ những kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế còn chưa nhiều.
Rõ ràng là các quan hệ kinh tế đối ngoại khác có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau.
Tóm lại với vai trò quan trọng của mình, xuất khẩu và việc đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
2.2.2. Đối với các doanh nghiệp
Cùng với xu hướng hội nhập của đất nước thì xu hướng vươn ra thị trường thế giới của doanh nghiệp cũng là một tất yếu khách quan. Bán hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài mang lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn để nhập khẩu những mặt hàng khác của doanh nghiệp, xuất khẩu không chỉ là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận lớn mà nó còn là một cơ sở, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Do vậy mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng là mục tiêu chính của các công ty. Bên cạnh việc xuất khẩu công ty còn phải nhập khẩu. Để nhập khẩu được đòi hỏi phải có vốn. Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp các công ty nhập khẩu theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước với vốn do Nhà nước cấp. Nay chuyển sang cơ chế thị trường xoá bỏ bao cấp các doanh nghiệp phải tự dùng vốn của chính mình để nhập khẩu. Mà nguồn vốn nhập khẩu quan trọng nhất của các doanh nghiệp chính là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
- Xuất khẩu mở ra những thị trường rộng lớn hơn, giúp doanh nghiệp có thêm cơ hội tiêu thụ hàng hoá và góp phần cho sản xuất phát triển ổn định.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi khả năng sản xuất đã được mở rộng cộng với việc xuất hiện hàng loạt các công ty cạnh tranh thì thị trường trong nước trở nên nhỏ hẹp không thể tiêu thụ hết hàng hoá sản xuất ra, sản phẩm dư thừa thì thị trường ngoài nước là nơi tiêu thụ rất tốt giúp công ty giải quyết số sản phẩm dư thừa đó đem lại ngoại tệ cho các công ty. Đồng thời xuất khẩu còn tạo ra thị trường ổn định thì cũng có nghĩa là ổn định sản xuất.
- Xuất khẩu để duy trì sản xuất và thu lợi nhuận.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn cạnh tranh với các đối thủ mạnh khắp nơi trên thế giới. Do vậy để tồn tại và phát triển đòi hỏi mỗi công ty phải làm tốt tất cả mọi khâu trong quá trình kinh doanh từ nghiên cứu thị trường, tìm đối tác giao dịch,…cho đến khâu tiêu thụ và thu tiền về. Nếu như trước đây trong cơ chế cũ công ty chỉ cần tạo ra nguồn hàng theo chỉ tiêu của Nhà nước còn mọi công việc phân phối, tiêu thụ là do Nhà nước đảm nhiệm thì nay chuyển sang cơ chế mới – Cơ chề thị trường thì nhiệm vụ này của công ty không chỉ dừng lại ở việc tạo ra nguồn hàng mà tiếp tục còn phải hoàn thành khâu tiêu thụ và thu tiền về thì mới hết một quy trình kinh doanh. Trong quy trình trên khâu tiêu thụ là rất quan trọng – Bởi lẽ thị trường trong nước đang ngày càng bị thu hẹp lại. Do vậy xuất khẩu sẽ là một phương thức hữu hiệu giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất và thu lợi nhuận.
- Tăng cường sự cạnh tranh giữa hàng ngoại và hàng của công ty bắt buộc các doanh nghiệp phải tiếp tục vươn lên:
Xuất khẩu cũng là một phương thức tiêu thụ nhưng nó khác với tiêu thụ nội địa ở chỗ xuất khẩu buộc các doanh nghiệp không chỉ canh tranh với các đối thủ trong nước mà còn phải canh tranh với nhiều đối thủ trên trế giới. Do vậy thông qua xuất khẩu hàng hoá nội địa sẽ tham gia vào cuộc canh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Vì vậy doanh nghiệp phải nâng cao khả năng quản lý để tăng năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Đây là điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Với chủ trương đa dạng hóa các loại hình xuất khẩu hiện nay các doanh nghiệp ngoại thương đang áp dụng rất nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Sau đây, chúng ta xem xét một số loại hình xuất khẩu chủ yếu sau:
Xuất khẩu trực tiếp:
Là hình thức đơn vị ngoại thương đặt mua các sản phẩm của các đơn vị sản xuất trong nước (hoặc tự liên doanh sản xuất). Sau đó xuất khẩu những sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của mình.
Các bước tiến hành:
Ký hợp đồng nội, mua hàng, trả tiền cho các đơn vị sản xuất trong nước.
Ký hợp đồng ngoại, giao hàng, nhận tiền thanh toán với bên nước ngoài.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận mà các đơn vị kinh doanh xuất khẩu thu được thường cao hơn các hình thức khác. Đơn vị ngoại thương đứng ra với vai trò là người bán trực tiếp. Do đó nếu hàng có quy cách, sản xuất tốt sẽ nâng cao được uy tín của đơn vị. Tuy nhiên, trước hết nó đòi hỏi đơn vị xuất khẩu phải có lượng vốn khá lớn ứng trước để mua hàng. Hơn nữa loại hình này thường có mức độ rủi ro lớn vì: doanh nghiệp ngoại thương không tự sản xuất, công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm không chu đáo dẫn đến bị khiếu nại, do thiên tai, mất mùa nên ký hợp đồng ngoại thương song không có hàng để xuất.
Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Trong hình thức này đơn vị ngoại thương đứng ra nhập nguyên liệu từ nước ngoài và bán lại nguyên liệu về cho xí nghiệp gia công để gia công ra thành phẩm, sản phẩm. Sau đó thu hồi thành phẩm xuất lại cho bên nước ngoài. Và đơn vị phải thanh toán giá gia công cho bên nhận gia công.
Các bước tiến hành:
Ký kết hợp đồng gia công uỷ thác với đơn vị trong nước.
Ký kết hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên liệu.
Giao nguyên liệu cho đơn vị gia công.
Nhận thành phẩm và giao cho bên nước ngoài.
Thanh toán phí gia công cho đơn vị gia công và hưởng chênh lệch phí gia công giữa đơn vị trong nước và đơn vị nước ngoài.
Hình thức này có ưu điểm là không cần đưa vốn vào kinh doanh nhưng đạt hiệu quả tương đối cao, rủi ro rất thấp, thanh toán đảm bảo nhưng đòi hỏi cán bộ kinh doanh phải có nhiều kinh nghiệm. Khi ký kết hợp đồng gia công cần chú ý tính toán định mức tiêu hao nguyên liệu trong quá trình gia công, xem xét giá gia công, hình thức gia công…
Hình thức gia công còn có thể là doanh nghiệp sau khi ký hợp đồng gia công với bên nước ngoài, tự tìm và nhập khẩu nguyên liệu. Ngoài ra còn có thể tự gia công để nhận toàn bộ phí gia công nếu doanh nghiệp có điều kiện gia công.
Xuất khẩu uỷ thác.
Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hàng hoá dịch vụ muốn xuất khẩu nhưng doanh nghiệp này không được quyền xuất khẩu hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp, uỷ thác cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu làm dịch vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ được nhận một khoản tiền gọi là phí uỷ thác.
Các bước tiến hành:
Ký hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu với đơn vị sản xuất trong nước.
Ký hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài, giao hàng và nhận tiền hàng.
Thanh toán tiền hàng và nhận phí uỷ thác của đơn vị sản xuất.
ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm thấp, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt không cần huy động vốn để mua hàng, cần ít thủ tục và tương đối tin cậy. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được không cao.
Buôn bán đối lưu.
Là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua. Lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. ở đây mục đích xuất khẩu không phải để thu được một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương giá trị lô hàng đã xuất.
Trong buôn bán đối lưu, người ta luôn luôn chú trọng đến yêu cầu cân bằng. Đó là yêu cầu phải có sự cân đối giữa nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên. yêu cầu cân bằng thể hiện ở chỗ:
+ Cân bằng về mặt hàng, nghĩa là: mặt hàng quý đổi lấy mặt hàng quý, mặt hàng tồn kho, khó bán đổi lấy mặt hàng tồn kho, khó bán.
+ Cân bằng về giá cả: so với giá quốc tế nếu giá hàng nhập cao thì khi xuất cho đối phương giá hàng xuất khẩu cũng phải được tính cao tương ứng; ngược lại nếu giá hàng nhập hạ thì khi xuất khẩu cho đối phương, giá hàng xuất cũng phải tính hạ một cách tương ứng.
+ Cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau: do không có sự di chuyển tiền tệ, hai bên thường quan tâm sao cho tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ giao cho nhau phải tương đối cân bằng nhau.
+ Cân bằng về điều kiện giao hàng: nếu xuất khẩu CIF thì phải nhập khẩu CIF; nếu nhập khẩu FOB thì nhập khẩu FOB.
Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu:
a/ Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter) hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao hàng hầu như diễn ra đồng thời. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng cổ điển, đồng tiền không được dùng để thanh toán và chỉ có hai bên tham gia. Trong nghiệp vụ đổi hàng hiện đại, người ta có sử dụng tiền để thanh toán một phần tiền hàng, hơn nữa lại có thể thu hút tới 3 - 4 bên tham gia.
b/ Trong nghiệp vụ bù trừ (compensation) hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi trị giá hàng giao và hàng nhận đến cuối kỳ hạn, hai bên mới đối chiếu sổ sách, so sánh giữa giá trị hàng giao với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế, mà còn số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100748.doc