Trong quá trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, công tác kế hoạch cũng từng bước được hoàn thiện, góp phần tích cực vào việc hoàn thành thắng lợi các mục tiêu trong các Chiến lược và Kế hoạch phát triển KTXH đề ra. Ngày nay, trước xu thế hội nhập hội nhập và sự biến động của cơ chế thị trường thì vai trò Nhà nước càng thể hiện quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô và định hướng phát triển cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì việc đổi mới, hoàn thiện các cơ chế, chính sách là một điều tất yếu. Trong đó, kế hoạch là một trong những công cụ quản lý, điều hành của Nhà nước nên việc đổi mới, hoàn thiện công tác lập KH là một việc hết sức cần thiết và cấp bách.
Đối với các địa phương hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH đang là một trong những trọng tâm của công tác cải cách hành chính. Bởi lẽ, chỉ khi công tác này được đổi mới, hoàn thiện sẽ giúp địa phương có công cụ điều hành, quản lý đời sống KTXH trên địa bàn một cách hiệu quả. Bên cạch đó,việc hoàn thiện công tác xây dựng KH phát triển KTXH là tiền đề để huy động một cách có hiệu quả nguồn lực của toàn xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương. Vai trò của công tác KH đã và đang được tiếp tục khẳng định.
Yên Châu là một trong những địa phương được triển khai nhiều hoạt động hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH. Hoạt động tham vấn KH phát triển KTXH 5 năm, hàng năm của huyện sớm được triển khai trên toàn địa bàn của huyện, trong khuân khổ dự án “ Dự án phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà”,Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hợp tác kỹ thuật CHXHCN Việt Nam-Liên bang Đức tài trợ, đồng thời dự án cũng mở lớp tập huấn hỗ trợ các cán bộ phòng Tài chính-Kế hoạch huyện về công tác lập KH từ thôn bản, đánh giá nông thôn có người dân tham gia. Đây là những tiền đề quan trọng để huyện có thể tiếp tục triển khai công cuộc này sâu rộng hơn,nhằm tạo ra một sự chuyển biến thật sự trong công tác lập KH phát triển KTXH trong toàn huyện.
Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn công tác lập KH cấp huyện ở Yên Châu mặc dù đã có nhiều hoàn thiện, đổi mới, song quá trình hoàn thiện thiếu đồng bộ, hiệu quả và hiệu lực còn thấp, KH còn mang nặng tính áp đặt, chủ quan duy ý chí. Công tác lập kế hoạch hàng năm được thực hiện theo khung hướng dẫn từ Trung ương đến địa phương và được Trung ương tổng hợp trong vòng một tháng, sau đó đã không đủ thời gian tổng hợp từ cơ sở nên quy trình tham vấn các bên liên quan vào bản KH vẫn chưa đạt hiêu quả cao. Các chỉ số về nguồn tài chính và KH thường cách xa nhau, thiếu các chỉ tiêu lồng ghép giữa kinh tế-xã hội-xóa đói giảm nghèo-môi trường. Công tác lập KH chưa thực sự được coi trọng, bản KH chưa thực sự trở thành công cụ hữu ích cho công tác quản lý của các cấp chính quyền huyện.
Từ những nhược điểm nêu trên cho thây việc hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH là cấp bách và hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tế trên, em xin được chọn đề tài “Hoàn thiện công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Bài chuyện đề này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp cơ bản có thể hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH tại huyện Yên Châu, với hy vọng công tác lập KH tại huyện sẽ ngày càng hoàn thiện hơn, bản KH được xây dựng với chất lượng tôt hơn và thực sự là công cụ hỗ trợ cho quá trình quản lý, điều hành của chính quyền địa phương.
78 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế-Xã hội huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề tài:"Hoàn thiện công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La."
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
KH
Kế hoạch
KHH
Kế hoạch hóa
KTXH
Kinh tế-xã hội
Bộ KH&ĐT
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Sở KH&ĐT
Sở Kế hoạch và Đầu tư
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
TD&ĐG
Theo dõi và đánh giá
CHXHCN
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CHLB
Cộng hòa liên bang
AN-QP
An ninh-Quốc phòng
TCKH
Tài chính-Kế hoạch
BQL
Ban quản lý
VDP
Lập kế hoạch phát triển thôn bản
PRA
Đánh giá nông thôn có người tham gia
ĐBKK
Đặc biệt khó khăn
SWOT
Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội, Thách thức
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
XĐGN
Xóa đói giảm nghèo
GTZ
Tổ chức hợp tác kỹ thuật của Cộng hòa Liên Bang Đức
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng 1: Cơ cấu sử dụng đất huyện Yên Châu – Sơn La
Bảng 2: Tình hình dân số huyện Yên Châu qua các năm
Bảng 3: Khung KH trong việc xác định các giải pháp thực hiện KH
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy KHH ở Việt Nam
Sơ đồ 2: Quy trình lập KH phát triển KTXH huyện Yên Châu
Sơ đồ 3: Lập KH dựa vào kết quả
Sơ đồ 4: Sự tham gia đóng vai trò trung tâm
Sơ đồ 5: Quy trình xây dựng KH huyện Yên ChâuH
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, công tác kế hoạch cũng từng bước được hoàn thiện, góp phần tích cực vào việc hoàn thành thắng lợi các mục tiêu trong các Chiến lược và Kế hoạch phát triển KTXH đề ra. Ngày nay, trước xu thế hội nhập hội nhập và sự biến động của cơ chế thị trường thì vai trò Nhà nước càng thể hiện quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô và định hướng phát triển cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì việc đổi mới, hoàn thiện các cơ chế, chính sách là một điều tất yếu. Trong đó, kế hoạch là một trong những công cụ quản lý, điều hành của Nhà nước nên việc đổi mới, hoàn thiện công tác lập KH là một việc hết sức cần thiết và cấp bách.
Đối với các địa phương hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH đang là một trong những trọng tâm của công tác cải cách hành chính. Bởi lẽ, chỉ khi công tác này được đổi mới, hoàn thiện sẽ giúp địa phương có công cụ điều hành, quản lý đời sống KTXH trên địa bàn một cách hiệu quả. Bên cạch đó,việc hoàn thiện công tác xây dựng KH phát triển KTXH là tiền đề để huy động một cách có hiệu quả nguồn lực của toàn xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương. Vai trò của công tác KH đã và đang được tiếp tục khẳng định.
Yên Châu là một trong những địa phương được triển khai nhiều hoạt động hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH. Hoạt động tham vấn KH phát triển KTXH 5 năm, hàng năm của huyện sớm được triển khai trên toàn địa bàn của huyện, trong khuân khổ dự án “ Dự án phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà”,Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hợp tác kỹ thuật CHXHCN Việt Nam-Liên bang Đức tài trợ, đồng thời dự án cũng mở lớp tập huấn hỗ trợ các cán bộ phòng Tài chính-Kế hoạch huyện về công tác lập KH từ thôn bản, đánh giá nông thôn có người dân tham gia. Đây là những tiền đề quan trọng để huyện có thể tiếp tục triển khai công cuộc này sâu rộng hơn,nhằm tạo ra một sự chuyển biến thật sự trong công tác lập KH phát triển KTXH trong toàn huyện.
Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn công tác lập KH cấp huyện ở Yên Châu mặc dù đã có nhiều hoàn thiện, đổi mới, song quá trình hoàn thiện thiếu đồng bộ, hiệu quả và hiệu lực còn thấp, KH còn mang nặng tính áp đặt, chủ quan duy ý chí. Công tác lập kế hoạch hàng năm được thực hiện theo khung hướng dẫn từ Trung ương đến địa phương và được Trung ương tổng hợp trong vòng một tháng, sau đó đã không đủ thời gian tổng hợp từ cơ sở nên quy trình tham vấn các bên liên quan vào bản KH vẫn chưa đạt hiêu quả cao. Các chỉ số về nguồn tài chính và KH thường cách xa nhau, thiếu các chỉ tiêu lồng ghép giữa kinh tế-xã hội-xóa đói giảm nghèo-môi trường. Công tác lập KH chưa thực sự được coi trọng, bản KH chưa thực sự trở thành công cụ hữu ích cho công tác quản lý của các cấp chính quyền huyện.
Từ những nhược điểm nêu trên cho thây việc hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH là cấp bách và hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tế trên, em xin được chọn đề tài “Hoàn thiện công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Bài chuyện đề này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp cơ bản có thể hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH tại huyện Yên Châu, với hy vọng công tác lập KH tại huyện sẽ ngày càng hoàn thiện hơn, bản KH được xây dựng với chất lượng tôt hơn và thực sự là công cụ hỗ trợ cho quá trình quản lý, điều hành của chính quyền địa phương.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tương nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu công tác lập kế hoạch phát triển KTXH cấp huyện hàng năm và 5 năm.
- Phạm vi nghiên cứu:
• Về nội dung: nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác lập KH phát triển KTXH cấp huyện.
• Phạm vi không gian: Nghiên cứu công tác lập kế hoạch huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
• Phạm vi thời gian: Tiến hành nghiên cứu công tác lập KH phát triển KTXH 5 năm (2006-2010) và công tác lập KH phát triển KTXH hàng năm 2007,2008, 2009
3. Mục đích của việc nghiên cứu
Chuyên đề tập trung làm rõ cơ sở lý luận về KH phát triển KTXH trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết đổi mới công tác lập KH phát triển KTXH cấp huyện hiện nay. Trên cơ sở đó, chuyên đề đi sâu tìm hiểu thực trạng công tác lập KH phát triển KTXH tại huyện Yên Châu hiện nay. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH cấp huyện ở Yên Châu.
Kết cấu của chuyên đề:
Chương I: Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở huyện Yên Châu-Sơn La
Chương II: Đánh giá về công tác lập kế hoạch phát triển ở huyện Yên Châu-Sơn La
Chương III: Hoàn thiện công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội huyện Yên Châu Sơn La (giai đoạn 2011-2015)
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN CÔNG TÁC LẬP
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
HUYỆN YÊN CHÂU – SƠN LA
1.1. Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
.1 Khái niệm và vai trò của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.1 Khái niệm về kế hoạch
Nhà nước có một vai trò chính đáng và thường xuyên trong các nền kinh tế hiện đại. Vai trò đó của Nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định "các quy tắc trò chơi" để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, khắc phục những khuyết tật của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh tế.
Để thực hiện được vai trò của mình, Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: hệ thống luật pháp, hệ thống hoạch định phát triển, các công cụ đòn bẩy kinh tế(thuế, trợ cấp…), các chính sách kinh tế(tài khóa, tiền tệ, thương mại, đầu tư…), lực lượng kinh tế của Nhà nước (doanh nghiệp Nhà nước, dự trữ quốc gia…). Công cụ kế hoạch với tư cách là một trong những công cụ khác nhau được Chính phủ sử dụng điều tiết nền kinh tế thị trường. Kế hoạch được hiểu là sự thể hiện ý đồ của chủ thể về sự phát triển trong tương lai của đối tượng quản lý và các giải pháp để thực thi. Nó xác định xem một quá trình phải làm gi? Làm thế nào? Khi nào làm và ai sẽ làm?
Như vậy, Kế hoạch là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hóa các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển theo từng thời kỳ bằng hệ thống các mục tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng phát triển và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.
Từ đó ta có thể đưa ra được định nghĩa về KH phát triển KTXH như sau:
“Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KHPTKT-XH) là công cụ quản lý của nhà nước theo mục tiêu, nó được thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển KTXH phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia hoặc một địa phương và những giải pháp, chính sách nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra một cách hiệu quả cao nhất.”(Nguồn: ThS Vũ Cương, Bộ tài liệu đào tạo:Lập Kế hoạch có tính chất chiến lược phát triển kinh tế địa phương, trang 9)
1.1.1.2 Vai trò của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
Trước tiên, cần thấy rằng sự tồn tại của kế hoạch xuất phát từ vai trò tất yếu của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đều biết, một nền kinh tế thị trường hoàn hảo đến đâu vẫn không thể vận hành mà không có sự điều tiết, quản lý của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường tồn tại như tất yếu khách quan, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của xã hội muốn có một cơ chế điều tiết bổ trợ cho cơ chế thị trường, nhằm vừa tạo điều kiện cho cơ chế thị trường phát huy những mặt mạnh của mình, vừa hạn chế hậu quả khắc nghiệt mà cơ chế đó tạo ra trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch có vai trò:
● Kế hoạch tồn tại với tư cách là công cụ quản lý của nhà nước trong mọi nền kinh tế.
* Kế hoạch là công cụ chủ yếu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế mệnh lệnh là các cơ sơ kinh tế được xây dựng và hoàn thiện trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nhà nước chuyên chính vô sản không những đóng vai trò điều hành chính trị mà còn có khả năng điều tiết và quản lý toàn diện, trực tiếp các vấn đề về kinh tế. Kế hoạch hóa tập trung thực chất là sự khống chế trực tiếp những hoạt động kinh tế bằng cách tập trung phân bổ nguồn lực thông qua các quyết định mang tính mệnh lệnh phát ra từ trung ương. Các mục tiêu cụ thể được hoạch định trước bởi các nhà kế hoạch ở trung ương đã tạo nên cơ sở cho một kế hoạch kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ, và được chuyển xuống cho cấp dưới theo tuyến dọc. Quá trình triển khai thực hiện kế hoạch được tiến hành trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh cấp trên giao cho cấp dưới, phương thức cấp phát-giao nộp vốn, vật tư, lao động, sản phẩm hàng hóa và các chỉ thị mệnh lệnh mang tính hành chính. Như vậy, kế hoạch là công cụ chủ yếu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
* Kế hoạch là công cụ định hướng phát triển trong nền kinh tế thị trường
Đặc trưng cơ bản của các nước có nền kinh tế thị trường là tính chất đa thành phần kinh tế, sở hữu tư nhân dưới nhiều hình thức khác nhau thống trị nền kinh tế. Kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường là kế hoạch hóa định hướng phát triển, trong đó các mục tiêu và chỉ tiêu được xác định mang tính định hướng, dự báo, nó chỉ thể hiện trong một số lĩnh vực chủ yếu, được ưu tiên trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Để thực hiện các mục tiêu đặt ra, cơ chế tác động của Chính phủ thường mang tính gián tiếp thông qua các chính sách định hướng và điều tiết vĩ mô.
Các công cụ kế hoạch phát triển bao gồm: Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển KTXH trực tiếp giúp Chính phủ thực hiện chức năng ổn định vĩ mô và định hướng tương lai trong điều kiện kinh tế thị trường. Chính phủ, thông qua các công cụ hoạch định, sẽ đánh giá được tình hình kinh tế hiện tại và mức độ, khả năng giải quyết các vấn đề KTXH tại thời điểm nhất định, xây dựng các mục tiêu chiến lược định hướng sự phát triển KTXH của từng vùng, từng ngành trong tương lai, liên kết mục tiêu đặt ra với cơ cấu nguồn lực, thực hiện các ưu tiên đầu tư cần thiết để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, liên kết các ngành, các vùng kinh tế thành một thể thống nhất theo các chương trình phát triển KTXH của quốc gia và các cấp khác, gắn các chính sách vào cơ chế giải quyết các nhiệm vụ chiến lược đặt ra, cung cấp các thông tin và tình hình thị trường trong và ngoài nước cho các nhà kinh doanh.
Như vậy, kế hoạch là công cụ định hướng phát triển trong nền kinh tế thị trường.
● Kế hoạch là một trong hai công cụ điều tiết trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh thị trường luôn tồn tại hai công cụ điều tiết là thị trường và kế hoạch. Điều tiết nền kinh tế thị trường bảo đảm cho sản xuất đạt hiệu quả tài chính cao, là cơ sở lựa chọn và phân bổ nguồn lực tối ưu cho các hoạt động sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên, nó cũng còn có nhiều khuyết tật, hạn chế. Kế hoạch phát triển là một công cụ tổ chức can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Nó giúp cho sự can thiệp của nhà nước chắc chắn khắc phục được thất bại của thị trường, hướng hoạt động thị trường vào những mục tiêu mà xã hội cần có và bảo đảm sự vận hành của thị trường luôn tương xứng với hiệu quả xã hội.
1.1.2 Sự khác biệt giữa kế hoạch trong nền kinh tế thị trường và nền kinh tế tập trung
1.1.2.1 Sự khác biệt về mặt bản chất
Trong cơ chế KHH tập trung, KH thể hiện ở sự khống chế trực tiếp của Nhà nước đối với những hoạt động kinh tế-xã hội thông qua quá trình đưa ra những quyết định pháp lệnh phát ra từ Trung ương. Các chỉ tiêu KH được xác định bởi các nhà KH Trung ương, tạo nên một KH kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ. Nguồn nhân lực, vật tư chủ yếu và tài chính không phải được phân phối theo giá thị trường và cung cầu mà phân phối theo các nhu cầu của KH tổng thể, theo những quyết định hành chính của các cấp, lãnh đạo. Như vậy, đặc trưng của KH trong cơ chế KHH tập trung là mang tính chất cưỡng chế trực tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường, KH là thể hiện sự nỗ lực có ý thức của Chính phủ trong quá trình thực hiện sự can thiệp ở tầm vĩ mô của nền kinh tế quốc dân, trên cơ sở chủ động thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đích nhằm đạt được mục tiêu sử dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng hiện có. KH trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở các phương án lựa chọn, sắp xếp, khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phép để đạt được kết quả cao nhất. Các chỉ tiêu đặt ra trong KH là những định hướng phát triển một số lĩnh vực chủ yếu và cách thức tác động của Chính phủ mang tính gián tiếp thông qua các chính sách và công cụ của chính sách điều tiết vĩ mô. Như vậy, bản chất của KHH phát triển trong nền kinh tế thị trường là tính thuyết phục gián tiếp.
Từ sự phân tích trên ta có thể tóm tắt sự khác nhau về bản chất của kế hoạch trong cơ chế KHH tập trung và trong nền kinh tế thị trường. (Phụ lục 1- So sánh bản chất của KH trong cơ chế KHH tập trung và trong nền kinh tế thị trường)
1.1.2.2 Hệ thống chỉ tiêu
Hệ thống chỉ tiêu trong KHPT là thước đo nhiệm vụ và nội dung phát triển KTXH của đất nước trong thời kỳ KH và được sử dụng để thực hiện hành vi điều tiết vĩ mô của nhà nước. Do có sự khác nhau về bản chất của kế hoạch trong cơ chế KHH tập trung và trong nền kinh tế thị trường nên hệ thống chỉ tiêu kế hoạch trong hai cơ chế cũng có sự khác nhau cả về hình thức và bản chất.
● Hệ thống chỉ tiêu KH trong cơ chế KHH tập trung có đặc điểm:
- Hệ thống chỉ tiêu mang tính pháp lệnh. Trong cơ chế KHH tập trung, vấn đề quan trọng nhất là hình thành hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh.
- Trong hệ thống chỉ tiêu thì chủ yếu là các chỉ tiêu kinh tế, không chú ý nhiều đến các chỉ tiêu xã hội–môi trường.
- Sử dụng các chỉ tiêu hiện vật.
● Hệ thống chỉ tiêu KH trong cơ chế thị trường có đặc điểm:
- Hệ thống chỉ tiêu mang tính định hướng, dự báo.
- Trong hệ thống chỉ tiêu bao gồm sử dụng các chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi trường, các chỉ tiêu lồng ghép.
- Sử dụng các chỉ tiêu giá trị.
1.1.2.3. Phương pháp lập KH
Theo phương pháp lập kế hoạch truyền thống trước đây, việc lập kế hoạch chủ yếu bắt đầu từ việc xác định những nguồn lực sẵn có của địa phương. Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến việc đề ra mục tiêu cần thực hiện trong thời kỳ kế hoạch. Phương pháp lập kế hoạch này là phương pháp lập kế hoạch dựa trên những gì mình có. Nó có một số đặc điểm sau:
- Việc lập kế hoạch chủ yếu là xuất phát từ các căn cứ đầu vào để xác định các mục tiêu trong thời kỳ kế hoạch dẫn đến các bản kế hoạch sẽ không tạo ra được tính đột phá khi thực hiện trong thực tế và bị rằng buộc bởi những gì sẵn có.
- Với cách lập kế hoạch như thế này cũng dẫn đến một tình trạng đó là sẽ có ít phương án kế hoạch địa phương có thể lựa chọn nhằm tìm kiếm được khả năng phát triển tối ưu nhất.
Từ những đặc điểm trên của phương pháp lập kế hoạch theo kiểu cũ thì dẫn đến một tình trạng chung đó là công tác lập kế hoạch bị rơi vào tình trạng bị động. Cho nên, cùng trong quá trình hoàn thiện thì công tác lập kế hoạch cũng đang được hoàn thiện theo hướng lập kế hoạch từ mục tiêu mong muốn. Nó được thể hiện cụ thể qua những đặc điểm sau:
- Việc lập kế hoạch được tiến hành theo hướng sẽ xác định các mục tiêu mong muốn thực hiện kỳ kế hoạch trước rồi mới căn cứ vào những mục tiêu này để có những chính sách huy động, khai thác các nguồn lực đầu vào. Đây là phương pháp đi từ mục tiêu để cân đối đầu vào nên khi lập kế hoạch sẽ không bị phụ thuộc hoàn toàn vào những nguồn lực sẵn có mà tìm cách huy động, khai thác thêm các nguồn lực khác.
- Với cách lập kế hoạch theo kiểu mới này sẽ tạo ra tính tích cực. giúp địa phương không những có thể thực hiện được nhũng mục tiêu mong muốn mà còn có thể tận dụng một cách tối đa mọi khả năng để phát triển.
● Phương pháp lập kế hoạch dựa vào kết quả (mục tiêu mong muốn)
Kế hoạch hóa dựa trên kết quả là phương pháp kế hoạch tiên tiến, hiện đại, có những ưu điểm chủ yếu:
- Khi sử dụng phương pháp kế hoạch dựa vào kết quả thì buộc các nhà lập kế hoạch phải nghĩ tới các giải pháp nhằm đạt được kết quả đã định và bản kế hoạch sẽ mạng tính hành động chứ không chỉ đơn thuần là vạch ra kế hoạch hoạt động hay kế hoạch công tác.
- Nâng cao trách nhiệm của các đối tượng tham gia thực hiện kế hoạch hoạt động trong việc tổ chức các hoạt động bằng cách so sánh kết quả đạt được với kết quả dự kiến thông qua giám sát, đánh giá, báo cáo, và điều chỉnh thường xuyên hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu kế hoạch.
- Tạo ra sự thống nhất trong hệ thống kế hoạch thông qua kết quả thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch, đồng thời định hướng các hoạt động từ khâu xây dựng kế hoạch đến tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá.
- Bảo đảm tính hiệu quả của kế hoạch thông qua việc kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả đạt được so với kết quả dự kiến.
- Bảo đảm chính xác, trung thực và chặt chẽ giữa lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch thông qua các kết quả với chỉ số kiểm định đúng đắn. Phương pháp kế hoạch hóa dựa trên kết quả cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch.
- Gắn kết được giữa kế hoạch với ngân sách. Kế hoạch trở thành các khung phân bổ chi phí ngân sách theo mục tiêu đã chọn, tránh thất thoát và hoang phí.
Sự khác biệt chủ yếu giữa xây dựng kế hoạch truyền thống và xây dựng kế hoạch dựa vào kết quả:Quy trình lập kế hoạch truyền thống chủ yếu dựa vào đầu vào và đầu ra mà chưa tính đến kết quả tác động của nó.Phương pháp xây dựng kế hoạch truyền thống chủ yếu dựa vào đầu vào và đầu ra trong khi phương lập kế hoạch dựa vào kết quả chú trọng tới các kết cục của các mục tiêu, chỉ tiêu để xây dựng các phương án, giải pháp và hành động nhằm đạt được mục tiêu đề ra. ( Phụ lục 2, Sơ đồ sự khác nhau giữa lập kế hoạch truyền thống và lập kế hoạch dựa vào kết quả)
Qua những phân tích, so sánh trên ta có thể thấy rõ sự khác nhau cơ bản giữa hai phương pháp lập kế hoạch truyền thống và dựa vào kết quả. Trong đó, điểm khác biệt lớn nhất là một bên dựa vào nguồn lực sẵn có rồi mới xác định mục tiêu cần thực hiện cho thời kỳ kế hoạch dựa trên nguồn lực đó, còn một bên thì xác định mục tiêu mong muốn thực hiện trước rồi mới tìm cách huy động, khai thác tổng thể các nguồn lực nhằm thực hiện thành công mục tiêu đó.
1.1.2.4 Trình tự xây dựng KH
Do có sự khác biệt về bản chất, nội dung và tính chất của KH trong cơ chế KHH tập trung và KH trong nền kinh tế thị trường nên trình tự xây dựng KH của hai phương thức cũng có những sự khác biệt
Trong cơ chế KHH tập trung, KH được xây dựng mang nặng tính bao cấp, phân bổ nguồn lực cho nền kinh tế chỉ chú trọng hai thành phần sở hữu quốc doanh và tập thể, mang tính dàn đều, không khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. KH được xây dựng từ trên xuống theo quy trình sau:
- Trung ương giao số kiểm tra xuống cho các bộ , ngành, địa phương
- Các đơn vị và địa phương giử nhu cầu lên cho cơ quan trung ương.
- Trung ương căn cứ nguồn lực hiện có xem xét, cân đối, phân bổ chi tiết và cụ thể từng sản phẩm, từng mặt hằng đến từng đơn vị.
Quá trình xây dựng như vậy thường bị chi phối bởi cả những mong muốn chủ quan của các cấp lãnh đạo và những người xây dựng KH. Trong nhiều trường hợp, KH thiếu tính khách quan và mang tính áp đặt, không dựa theo nhu cầu cụ thể từng ngành, từng địa phương.
Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay: được đổi mới dựa trên nền tảng KH phải xây dựng phải phù hợp với điều kiện của từng địa phương hoặc từng ngành. KH được xây dựng dựa trên cơ sở tình hình thực tế và khả năng thực hiện, mang tính định hướng, không áp đặt. KH phải huy động được nhiều nguồn lực của nhiều thành phần để thực hiện các mục tiêu đặt ra, điều tiết, khắc phục các khiếm khuyết của thị trường. Do vậy, quy trình KH phải được xây dựng ngày càng mở, có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp và các thành phần kinh tế. (Phụ lục 4, Bảng so sánh sự khác biệt về quy trình lập kế hoạch trong cơ chế KHH tập trung và cơ chế kinh tế thị trường)
1.1.3 Các cấp độ lập kế hoạch ở Việt Nam
Bộ máy quản lý kế hoạch của Việt Nam được phân chia thành 3 nhóm: cơ quan kế hoạch trung ương, các bộ phận lập kế hoạch của các bộ ngành và cơ quan chức năng, các đơn vị lập kế hoạch của địa phương.
● Cơ quan kế hoạch hóa quốc gia (Bộ KHĐT)
Bộ KH ĐT là cơ quan tham mưu cho Thủ tướng chính phủ và đảm nhận các chức năng sau đây:
Là cơ quan tổng hợp về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước.
Tham mưu tổng hợp về cơ chế, chính sách và luật pháp có liên quan đến quản lý kinh tế chung và một số lĩnh vực cụ thể như: đầu tư trong và ngoài nước, đấu thầu, tổ chức đăng ký kinh doanh, quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Bộ.
Là đầu mối thu hút và phân bổ chi tiết nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, xét duyệt các dự án đầu tư đối với các dự án quốc gia.
Chịu trách nhiệm thống nhất các nội dung mang tính chất nghiệp vụ thuộc ngành kế hoạch, đầu tư cho toàn bộ hệ thống kế hoạch hóa của cả nước.
● Cơ quan kế hoạch ngành (Bộ quản lý ngành)
Các bộ, ngành trung ương với chức năng quản lý nhà nước có nhiệm vụ xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển toàn ngành, tổng hợp xử lý và tối ưu hóa các phương án kế hoạch từ các tổng công ty, các công ty, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Mối quan hệ giữa bộ Kế hoạch-Đầu tư với các bộ ngành trung ương là mối quan hệ hai chiều, cung cấp thông tin, xử lý liên ngành và tổng hợp các phương án tối ưu trong tổng thể phát triển nền kinh tế.
● Cơ quan kế hoạch các cấp địa phương
Sở Kế hoạch-Đầu tư có chức năng tham mưu cho UBND tỉnh, thành phố về định hướng phát triển kinh tế xã hội của địa phương và là tổ chức ngành dọc của Bộ KH-ĐT. Chức năng của Sở Kế hoạch-Đầu tư cũng giống như Bộ KH-ĐT nhưng quy mô và phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh. Sở KH-ĐT chịu sựu quản lý hành chính, nhà nước UBND tỉnh và chịu sự quản lý theo ngành dọc và Bộ KH-ĐT. Bên cạch sở KH-ĐT, các sở, các ban ngành chuyên môn ở tỉnh như Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Khoa học công nghệ…với chức năng của mình cũng sẽ nghiên cứu quy hoạch và kế hoạch phát triển của ngành mình ở trên địa phương. Trên cơ sở đó, Sở KH-ĐT sẽ tổng hợp theo tuyến dọc và ngang để có bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Tương tự như cấp tỉnh, các cấp kế hoạch cấp dưới cũng được hình thành và tổ chức với quy mô nhỏ hơn. Tùy thuộc vào quy mô các địa phương huyện, xã, các cơ quan chuyên trách xây dựng và quản lý kế hoạch sẽ được hình thành (xem sơ đồ 1 trang 12).
1.1.4 Quy trình lập kế hoạch
Công tác lập KH cấp huyện ở hầu hết các địa phương đều được tiến hành theo quy trình “2 xuống- 1 lên”, cụ thể là 2 lần từ trên xuống ( lần 1: hướng dẫn KH, lần 2: giao chỉ tiêu KH) và 1 lần từ dưới lên( lập KH từ dưới lên sau khi được hướng dẫn). Theo quy trình này, cấp KH trên sẽ gửi hướng dẫn lập xuống cho cấp dưới, trên cơ sở đó, cấp dưới xây dựng KH của mình và gửi lên trên. Sau khi tổng hợp và phê duyệt, cấp trên sẽ giao chỉ tiêu kế hoạch xuống cấp dưới thực hiện. Đây là quy trình lập KH mang tính chất của thời kỳ bao cấp, nặng về việc áp đặt mục tiêu nhiệm vụ từ trên xuống. Mặc dù trong thời gian gần đây, số chỉ tiêu pháp lệnh do cấp trên giao được chuyển gần hết sang chỉ tiêu hướng dẫn, nhưng quy trình này vẫn mang nặng hình thức thiếu đi tính thực tiễn.
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy KHH ở Việt Nam
Kế hoạch cấp Trung Ương
Quốc hội
Kế hoạch ngành
Các đơn vị kinh tế
Bộ quản lý ngành
Tỉnh, Thành phố
Bộ KH&ĐT
Chính Phủ
Quận, huyện
Phường, xã
Kế hoạch các cấp địa phương
Nguồn: PGS.TS Ngô Thắng Lợi - Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển
(Trang 75) – Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân
1.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Yên Châu – Sơn La
1.2.1 Vai trò của kế hoạch cấp huyện
Là một bộ phận trong hệ thống KH quốc gia, nên vai trò của KH phát triển KTXH huyện được thể hiện:
- Điều tiết phối hợp ổn định kinh tế huyện. KH c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112197.doc