Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống Ngân hàng được ví như hệ thần kinh của cả nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng một cách hiệu quả, kích thích tăng trưởng một cách bền vững. Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường, rủi ro kinh doanh là không thể tránh khỏi, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động Ngân hàng có phản ứng dây chuyền, lây lan và ngày một phức tạp.
Đối với hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam, kể từ khi chuyển qua cơ chế thị trường, đã từng bước lớn mạnh và thu được những thành tựu quan trọng; nhưng cũng trong quá trình đổi mới, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam đã vấp phải những rủi ro gây tổn thất nặng nề. Một trong những rủi ro đó là rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Trong hàng thập kỉ qua, thế giới đã phát triển những công cụ hữu ích nhằm mục đích hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM bởi lẽ đây là hoạt động cơ bản chủ yếu của Ngân hàng cũng đồng thời là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro. Trong các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, chấm điểm tín dụng là công cụ được phát triển rộng rãi trên thế giới và các NHTM Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện các mô hình chấm điểm để ứng dụng nó trong hoạt động phân tích và thẩm định tín dụng.
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng đối với NHTM hiện nay, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng tại Sở Giao Dịch I – Ngân hàng Công Thương Việt Nam.”
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác chấm điểm tín dụng.
Chương 2: Thực trạng công tác chấm điểm tín dụng tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
98 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng tại Sở Giao Dịch I – Ngân hàng Công Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống Ngân hàng được ví như hệ thần kinh của cả nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng một cách hiệu quả, kích thích tăng trưởng một cách bền vững. Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường, rủi ro kinh doanh là không thể tránh khỏi, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động Ngân hàng có phản ứng dây chuyền, lây lan và ngày một phức tạp.
Đối với hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam, kể từ khi chuyển qua cơ chế thị trường, đã từng bước lớn mạnh và thu được những thành tựu quan trọng; nhưng cũng trong quá trình đổi mới, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam đã vấp phải những rủi ro gây tổn thất nặng nề. Một trong những rủi ro đó là rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Trong hàng thập kỉ qua, thế giới đã phát triển những công cụ hữu ích nhằm mục đích hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM bởi lẽ đây là hoạt động cơ bản chủ yếu của Ngân hàng cũng đồng thời là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro. Trong các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, chấm điểm tín dụng là công cụ được phát triển rộng rãi trên thế giới và các NHTM Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện các mô hình chấm điểm để ứng dụng nó trong hoạt động phân tích và thẩm định tín dụng.
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng đối với NHTM hiện nay, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng tại Sở Giao Dịch I – Ngân hàng Công Thương Việt Nam.”
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác chấm điểm tín dụng.
Chương 2: Thực trạng công tác chấm điểm tín dụng tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG
Hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, nguyên tắc tín dụng ngân hàng thương mại, điều kiện cấp tín dụng
Khái niệm tín dụng ngân hàng thương mại
Thuật ngữ “Credit” (tín dụng) xuất phát từ chữ gốc La tinh: Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Thông qua nghiên cứu bản chất của tín dụng người ta cho rằng: Tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật) trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn, người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Khoản giá trị dôi ra này gọi là lợi tức tín dụng.
Tín dụng ngân hàng ra đời cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá và gắn liền với quan hệ sở hữu. Kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển thì quan hệ tín dụng ngày càng được mở rộng đồng thời mở ra nhiều cơ hội kinh doanh. Nền kinh tế luôn tồn tại một nghịch lý là có những nơi vốn nhàn rỗi nhưng lại có những nơi thiếu vốn để sản xuất. Tín dụng ra đời đã phần nào khắc phục được nghịch lý trên. Ban đầu hình thức tín dụng chủ yếu là tín dụng thương mại hình thành dựa trên mối quan hệ buôn bán, bạn hàng lâu năm. Qui mô của loại tín dụng này thường bị giới hạn bởi không gian và khả năng tài chính. Nhu cầu vốn của nền kinh tế đòi hỏi phải có một tổ chức chuyên cấp tín dụng. Tín dụng ngân hàng ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đó.
Tín dụng ngân hàng là giao dịch giữa ngân hàng với cá nhân hay tổ chức kinh tế nào đó, trong đó ngân hàng cam kết cho phép cá nhân, tổ chức kinh tế được quyền sử dụng vốn hoặc tài sản của ngân hàng theo nguyên tắc có hoàn trả.
Tín dụng ngân hàng cũng như các loại tín dụng thương mại phát sinh dựa trên cơ sở bên cấp tín dụng tin tưởng vào khả năng trả nợ của bên nhận tín dụng. Do đó rủi ro tín dụng luôn đi kèm với tín dụng ngân hàng.
Nguyên tắc tín dụng ngân hàng thương mại
Mục tiêu hoạt động của ngân hàng thương mại là an toàn và sinh lợi. Do đó, hoạt động tín dụng của NH cũng phải tuân theo nguyên tắc cơ bản sau:
Theo điều 6, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do NHNN nước ban hành: KH phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích và hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Điều kiện cấp tín dụng
Các ngân hàng thương mại xem xét và quyết định cho vay khi KH có đủ các điều kiện sau:
Khách hàng có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật.
Khách hàng có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Khách hàng có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết.
Khách hàng có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với qui định của pháp luật.
Khách hàng thực hiện các qui chế về bảo đảm tiền vay theo qui định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Phân loại tín dụng ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của các NHTM. Trong quá trình hoạt động của mình, các ngân hàng luôn cố gắng đa dạng hoá các hình thức tín dụng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu tín dụng của KH đồng thời tạo ra những lợi thế của ngân hàng mình trong cạnh tranh. Người ta phân tín dụng ngân hàng theo một số tiêu chí cơ bản sau:
Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Tín dụng Ngân hàng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
Cho vay là nghiệp vụ tín dụng trong đó NH cho KH sử dụng tiền của ngân hàng căn cứ vào hợp đồng tín dụng theo nguyên tắc có hoàn trả.
Chiết khấu thương phiếu là việc NH ứng trước tiền cho KH tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của NH để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì NH không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền, tuy nhiên đối với NH, việc bỏ tiền ra ở hiện tại và thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước gọi là hoạt động tín dụng.
Bảo lãnh là việc NH cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ KH của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song NH đã cho KH sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê là việc NH bỏ tiền ra mua tài sản để cho KH thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, KH phải trả cả gốc lẫn lãi cho NH.
Phân loại theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với NH vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của KH. Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành:
Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn đến 1 năm;
Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm;
Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm;
Phân loại theo sự đảm bảo
Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo lãnh của người thứ ba.
Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo lãnh của bên thứ ba.
Phân loại theo mục đích tín dụng
Tín dụng bất động sản (BĐS): Đây là loại tín dụng được bảo đảm bằng BĐS, bao gồm:
Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai;
Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại và BĐS ở nước ngoài.
Tín dụng công thương nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các DN để trang trải các chi phí như mua hàng hoá, nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả lương.
Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc.
Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà di động, trang thiết bị trong nhà...
Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các NH, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Cho thuê tài chính: Là việc các NH mua các trang thiết bị, máy móc và cho thuê lại chúng.
Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng như tín dụng kinh doanh chứng khoán...
Phân loại theo rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, NH cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số NH lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu từ thấp lên cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh và chứng khoán.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao;
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như KH chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, KH gặp thiên tai, KH trì hoãn nộp báo cáo tài chính...
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời gian ngắn và KH có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn,
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu; khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, KH chây ì...
Công tác chấm điểm tín dụng trong hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại
Khái quát về phương pháp chấm điểm tín dụng
1.2.1.1.Khái niệm chấm điểm tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của các NHTM. Do đó, rủi ro tín dụng cũng là rủi ro thường gặp nhất trong hoạt động NH. Rủi ro tín dụng là rủi ro về sư tổn thất tài chính ( trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán. Như vậy, ngay từ khi cấp tín dụng cho KH, khoản tín dụng đó đã có rủi ro tiềm tàng. Để hạn chế rủi ro tín dụng, các NHTM đã đưa ra các chỉ tiêu đánh giá năng lực KH như khả năng tự tài trợ, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, đánh giá về vốn lưu động ròng, báo cáo tài chính đã được kiểm toán hay chưa và chấm điểm tín dụng là một công cụ để NH xem xét có cấp tín dụng cho KH hay không.
Chấm điểm tín dụng là phương pháp lượng hoá rủi ro không thanh toán của người vay bằng điểm số tín dụng, được tính dựa trên những tiêu chí chấm điểm nhất định. Các tiêu chí này nhất thiết phải có mối liên hệ với khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính của KH và được xác định thông qua quá trình phân tích đặc tính của những khoản vay đã được thực hiện.
1.2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của phương pháp chấm điểm tín dụng
Năm 1936, Fisher đã mô tả những nghiên cứu của ông về khả năng phân loại một nhóm các cá nhân đi vay dựa trên các đặc tính khác nhau có thể lượng hóa được. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại trên phương diện lý thuyết cho tới năm 1938 nhà nghiên cứu Dunham đưa ra một hệ thống đánh giá các hồ sơ vay vốn có sử dụng các tiêu chí cơ bản sau:
Chức danh, địa vị xã hội của người vay
Thống kê về thu nhập
Báo cáo tài chính
Tài sản thế chấp
Lịch sử trả nợ
Theo quan điểm của Dunham, việc lựa chọn những tiêu chí quan trọng này trên cơ sỏ kinh nghiệm sẽ chính xác hơn so với khi áp dụng các kĩ thuật phân tích thống kê phức tạp.
Năm 1941, một nhà kinh tế khác là Dunran đã lần đầu tiên sử dụng phương pháp phân tích thống kê trong chấm điểm tín dụng. Ông đưa ra một mô hình chấm điểm trong đó mối liên hệ giữa các đặc tính của người vay với rủi ro vỡ nợ của họ được biểu hiện dưới mối quan hệ thống kê. Phương pháp này đã tạo động lực thúc đẩy cho sự ra đời các lý thuyết xây dựng mô hình chấm điểm tín dụng sau này. Không dừng lại ở đó, Dunran còn đưa ra gợi ý về việc phân tích rủi ro tín dụng và được coi như người sáng lập ra những mô hình chấm điểm tín dụng được phát minh ngày nay. Hệ thống chấm đỉểm của Dunran được sử dụng để phân loại người vay với mục đích mua ô tô cũ. Các chỉ tiêu quan trọng bao gồm:
Nghề nghiệp, địa vị xã hội của người vay
Số năm làm công việc hiện tại
Số năm sống tại địa chỉ hiện tại
Giới tính
Bảo hiểm nhân thọ/ Các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
Số tiền vay phải trả hàng tháng
Cũng trong giai đoạn này, một vài nỗ lực đã được thực hiện để đưa ra những phiếu chấm điểm phát triển dựa trên đánh giá của các chuyên gia có kinh nghiệm. Điều này đã mở đường cho sự phát triển của hệ thống chấm điểm theo phương pháp chuyên gia hiện nay.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này vẫn chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, phân tán và khả năng ứng dụng là chưa cao. Mãi tới cuối những năm 50, khi thẻ tín dụng ra đời và phát triển, đòi hỏi phải rút ngắn thời gian thẩm định khoản vay thì chấm điểm tín dụng mới thực sự được biết đến và sử dụng phổ biến. Năm 1956, sự ra đời của hãng Fair, Isaac, một công ty có tiếng tăm trong việc cung cấp các mô hình chấm điểm tín dụng được thiết kế sẵn cho các ngân hàng đã đặt một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của mô hình chấm điểm tín dụng. Song các mô hình chấm điểm tín dụng chỉ được áp dụng cho các khoản vay cá nhân mang tính chất tiêu dùng.
Năm 1986, mô hình chấm điểm Z được R.Altman phát triển và áp dụng cho các doanh nghiệp. Mô hình này sử dụng phương pháp phân tích biệt số để phân loại các công ty thành các nhóm tùy theo xác suất phá sản của các công ty này lớn hay nhỏ. Các đặc tính có thể đo lường được sau đây là cơ sở để phân loại:
Chi phí tài chính
Khả năng hoàn trả tiền vay
Tỷ lệ lợi nhuận gộp kinh doanh
Thời hạn mua chịu nhà cung cấp
Thời gian bán chịu cho KH
Tỷ lệ đầu tư
Mặc dù mô hình chấm điểm Z bộc lộ một số hạn chế do việc đánh giá một doanh nghiệp chỉ dựa trên các chỉ số tài chính nhưng đã góp phần mở rộng đối tượng của chấm điểm tín dụng sang các doanh nghiệp.
Ngày nay, các mô hình chấm điểm tín dụng rất được các ngân hàng ưa chuộng với phạm vi áp dụng được mở rộng cho rất nhiều các sản phẩm tín dụng khác nhau. Các mô hình chấm điểm này không ngừng được nâng cấp để đem lại kết quả có độ chính xác cao hơn trong việc giúp NH dự đoán rủi ro của KH khi cấp tín dụng.
Đến năm 1995, Fair Isaac đã công bố phát minh mới trong việc ứng dụng mô hình chấm điểm tín dụng đối với các DN vừa và nhỏ. Sau phát minh này, các ngân hàng ở Hoa Kỳ đã triển khai mô hình này trong hệ thống của mình. Cho đến nay, chấm điểm tín dụng đã trở thành một công cụ không thể thiếu trong hệ thống các ngân hàng trên thế giới, nó trở thành cầu nối giúp thiết lập mối quan hệ vốn trước đây rất lỏng lẻo giữa DN vay vốn và NH.
Các mô hình chấm điểm tín dụng được phát triển trong thời gian gần đây đã khẳng định được sự vượt trội so với mô hình chấm điểm Z của Altman (1986). Các mô hình này đánh giá rủi ro của người vay dựa trên một tập hợp khá toàn diện và đầy đủ các yếu tố định tính và định lượng với các phương pháp phân tích hoàn chỉnh hơn nhiều so với các mô hình trước đây. Các hãng cung cấp các mô hình chấm điểm tín dụng nổi tiếng trên thế giới hiện nay bao gồm: Standard & Poor, Moody, KMV… Ngoài ra các ngân hàng lớn có tiềm lực về tài chính và công nghệ thường tự trang bị cho mình những hệ thống chấm điểm tín dụng riêng.
Những yếu tố trên đã tạo nên một sự phát triển đa dạng và phong phú các mô hình chấm điểm cũng như các phương pháp phân tích. Cùng với sự phát triển của hệ thống tài chính và ngân hàng dẫn đến những yêu cầu cấp thiết về quản trị rủi ro, sẽ có ngày càng nhiều các mô hình chấm điểm tín dụng với độ tin cậy cao được sử dụng.
1.2.1.3. Một số mô hình chấm điểm tín dụng
Khoảng 29 năm trở về trước, hầu hết các NH chỉ dựa duy nhất vào phương pháp truyền thống (định tính) để đánh giá rủi ro tín dụng người vay. Phương pháp truyền thống này vừa tỏ ra mất thời gian, tốn kém, lại vừa mang tính chủ quan, chính vì vậy, NH không ngừng cải tiến phương pháp đánh giá KH để ra các quyết định cho vay.
Ngày nay, một số NH đã sử dụng các mô hình cho điểm để lượng hoá rủi ro tín dụng đối với người vay. Mô hình chấm điểm tín dụng có ưu điểm so với phương pháp truyền thống là nó cho phép xử lý nhanh chóng một số lượng lớn các đơn xin vay, với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng ngân hàng. Các mô hình chấm điểm tín dụng sử dụng các số liệu phản ánh đặc điểm của người vay thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Để sử dụng các mô hình này, nhà quản lý phải xác định được các tiêu chí, về kinh tế và tài chính liên quan đến rủi ro tín dụng đối với từng nhóm khách hàng cụ thể. Đối với tín dụng tiêu dùng, các tiêu chí đó có thể là thu nhập, tài sản, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp và nơi ở. Đối với tín dụng công ty, các chỉ tiêu tài chính (như hệ số đòn bẩy) thường là các chỉ tiêu chủ yếu. Sau khi các tiêu chí đã được xác định, kĩ thuật thống kê sẽ được sử dụng để lượng hoá (cho điểm) xác suất rủi ro tín dụng hoặc để phân hạng rủi ro tín dụng.
1.2.1.3.1. Mô hình điểm số Z (Z- Credit Scoring Model)
Mô hình điểm số Z do E.I. Altman đề xướng để cho điểm tín dụng đối với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
Trị số các chỉ số tài chính của người vay (Xj)
Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ.
Từ đó, Altman đi đến mô hình cho điểm như sau:
Z= 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó:
X1= Tỷ số vốn lưu động ròng/ Tổng tài sản;
X2: Tỷ số lợi nhuận giữ lại/ Tổng tài sản;
X3: Tỷ số lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/ Tổng tài sản;
X4: Tỷ số thị giá cổ phiếu/ giá trị ghi sổ của nợ dài hạn;
X5: Tỷ số doanh thu/ Tổng tài sản;
Trị số Z càng cao, người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp KH vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Giả sử, một KH tiềm năng có các chỉ số tài chính là: X1=0,2; X2= 0; X3= -0.2; X4= 0,1; X5= 2,0; Chỉ số X2 bằng 0 và chỉ số X3 là một số âm nói lên rằng KH bị thua lỗ trong kì báo cáo; còn chỉ số X4= 10% nói lên rằng KH có tỷ số “ nợ/ Nguồn vốn chủ sở hữu” cao. Tuy nhiên, tỷ số “ Vốn lưu động ròng / tổng tài sản”(X1) và tỷ số “Doanh thu/ Tổng tài sản” (X5) lại cao, phản ánh khả năng thanh toán và duy trì doanh số bán hàng là tốt. Điểm số Z sẽ là thước đo tổng hợp về xác suất vỡ nợ của KH. Từ các số liệu đã cho, ta tính được điểm số Z của KH là 1,64.
Theo mô hình chấm điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số Z thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Căn cứ vào kết luận này, NH sẽ không cấp tín dụng cho KH này đến khi cải thiện được điểm số Z lớn hơn 1,81.
Mô hình điểm số Z có một số hạn chế sau:
Mô hình này chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành hai nhóm “ vỡ nợ” và “ không vỡ nợ”. Trong thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả đến chậm chễ trong việc trả lãi tiền vay. Điều này hàm ý, cần có một mô hình cho điểm chính xác hơn, toàn diện hơn theo nhiều thang điểm để phân loại KH thành nhiều nhóm tương ứng với các mức độ vỡ nợ khác nhau.
Không có lý do rõ ràng để giải thích sự bất biến về tầm quan trọng của các biến số theo thời gian, dù là trong ngắn hạn. Tương tự như vây, các biến số (Xj) cũng không phải là bất biến, đặc biệt là khi điều kiện thị trường và môi trường kinh doanh thường xuyên thay đổi. Ngoài ra, mô hình cũng giả thiết rằng các biến số (Xj) là hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau.
Mô hình đã không tính tới một số nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hoá và có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của KH. Ví dụ, yếu tố danh tiếng của KH, yếu tố mối quan hệ truyền thống giữa KH và ngân hàng, hay yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh. Nhìn chung các nhân tố này thường không được đề cập đến trong mô hình chấm điểm tín dụng Z. Mặt khác, mô hình cho điểm thường không sử dụng các thông tin đại chúng có sẵn, như giá cả thị trường của các tài sản tài chính...
1.2.1.3.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Ngày nay, nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp cho điểm để xử lý đơn xin vay của người tiêu dùng. Thực tế, nhiều tổ chức thẻ tín dụng đã sử dụng mô hình điểm số để xử lý số lượng đơn yêu cầu ngày một gia tăng, những ngân hàng cũng sử dụng mô hình này để đánh giá những khoản tín dụng mua sắm xe hơi, trang thiết bị gia đình, bất động sản và kinh doanh nhỏ. Nhiều KH ưa thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi những yêu cầu của họ được xử lý bằng hệ thống cho điểm tự động. Thông thường, khách hàng có thể gọi điện thoại đến ngân hàng để liên hệ việc xin vay, thông qua hệ thống máy tính nối mạng, trên cơ sở dữ liệu của KH, trong vòng vài phút, ngân hàng có thể thông báo kết quả tín dụng cho KH.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến KH sử dụng cho mô hình chấm điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số loại tài khoản cá nhân, thời gian công tác.
Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục, mỗi hạng mục được cho điểm từ 1 đến 10. Ví dụ, bảng dưới đây cho thấy những hạng mục và điểm của chúng thường được sử dụng ở các ngân hàng tại Mỹ.
Bảng 1.1: Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng
STT
Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng
Điểm số
1
Nghề nghiệp của người vay
Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh
Công nhân có kinh nghiệm (tay nghề cao)
Nhân viên văn phòng
Sinh viên
Công nhân không có kinh nghiệm
Công nhân bán thất nghiệp
10
8
7
5
4
2
2
Trạng thái nhà ở
Nhà riêng
Nhà thuê hay căn hộ
Sống cùng bạn hay người thân
6
4
2
3
Xếp hạng tín dụng
Tốt
Trung bình
Không có hồ sơ
Tồi
10
5
2
0
4
Kinh nghiệm nghề nghiệp
Nhiều hơn 1năm
Từ 1 năm trở xuống
5
2
5
Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành
Nhiều hơn 1năm
Từ 1 năm trở xuống
2
1
6
Điện thoại cố định
Có
Không
2
0
7
Số người sống cùng (phụ thuộc)
Không
Một
Hai
Ba
Nhiều hơn ba
3
3
4
4
2
8
Các tài khoản tại ngân hàng
Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành Séc
Chỉ tài khoản tiết kiệm
Chỉ tài khoản phát hành Séc
Không có
4
3
2
0
Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 hạng mục nêu trên là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết rằng, mức 28 điểm là ranh giới giữa KH có tín dụng tốt và KH có tín dụng xấu; trên cơ sở đó, ngân hàng hình thành một khung chính sách tín dụng tiêu dùng theo mô hình điểm số như sau:
Bảng 1.2: Bảng các quyết định tín dụng tương ứng với số điểm
Tổng điểm số khách hàng
Quyết định tín dụng
Từ 28 điểm trở xuống
Từ chối tin dụng
29-30 điểm
Cho vay đến $500
31-33 điểm
Cho vay đến $1000
34-36 điểm
Cho vay đến $2500
37-38 điểm
Cho vay đến $3500
39-40 điểm
Cho vay đến $5000
41-43 điểm
Cho vay đến $8000
Rõ ràng là mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên mô hình này cũng có một số nhược điểm như đã không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng trước sự thay đổi của nền kinh tế và những thay đổi trong cuộc sống gia đình. Mô hình điểm số không linh hoạt, có thể đe doạ đến chương trình tín dụng tiêu dùng của ngân hàng, bỏ sót những KH lành mạnh, làm giảm lòng tin của cộng đồng vào dịch vụ ngân hàng.
1.2.1.Ứng dụng của mô hình chấm điểm tín dụng trong xếp hạng tín nhiệm khách hàng
1.2.1.1. Khái niệm xếp hạng tín nhiệm khách hàng
Theo Born, John A. viết trong cuốn “ Phân tích rủi ro trên các thị trường đang chuyển đổi” xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suốt thời gian tồn tại của nó.
Theo cách định nghĩa của công ty chứng khoán Merrill Lynch, xếp hạng tín nhiệm là đánh giá hiện thời công xếp hạng tín nhiệm về chất lượng tín dụng của một nhà phát hành chứng khoán nợ, về một khoản nợ nhất định.
Theo công ty Moody’s, xếp hạng tín nhiệm là ý kiến về khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn. Trong kết quả xếp hạng có chứa cả đánh gía chủ quan của chuyên gia xếp hạng tín nhiệm.
Như vậy, đối với ngân hàng, xếp hạng tín nhiệm là kết quả của việc đánh giá tổng hợp tất cả các rủi ro về thanh toán gốc, lãi của các khoản nợ hiện tại và tương lai của người. Việc xếp hạng tín nhiệm được thực hiện trong mối quan hệ mật thiết giữa quá khứ, hiện tại và trên cơ sở đó đưa ra các dự đoán về tương lai, đồng thời kết quả xếp hạng tín nhiệm chứa đựng những ý kiến chủ quan của chuyên gia xếp hạng.
Tựu chung lại, việc xếp hạng tín nhiệm được nhấn mạnh ở các nội dung sau:
Xác định khả năng trả nợ đúng hạn, các thứ hạng sẽ cho biết năng lực và thiện chí của người vay với việc thanh toán lãi gốc và nợ đúng hạn, phù hợp với các điều khoản đã cam kết.
Tính chất và các điều khoản cam kết.
Bảo vệ các cam kết nợ để chúng có đủ sức và vị trí tương đối trong từng trường hợp phá sản, tái tổ chức hoặc những xếp đặt khác theo luật phá sản mà không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ.
1.2.1.2. Ứng dụng của chấm điểm tín dụng khi xếp hạng tín nhiệm khách hàng
Điểm số tín dụng là kết quả của quá trình chấm điểm tín dụng, nó phản ánh mức độ rủi ro của người vay hay phương án/ dự án xin cấp vốn. NH có thể sử dụng điểm số này để xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm đối với khách hàng, từ đó đưa ra các phán quyết tín dụng thích hợp.
Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp trên thế giới như Moody’s hay Standard & Poor thường xây dựng các mô hình xếp hạng tín nhiệm với 10 mức ứng với các điểm chuẩn khác nhau và phản ánh các mức độ rủi ro khác nhau của người đi vay. Dưới đây là ví dụ về hệ thống xếp hạng của Standard & Poor:
Bảng 1.3: Bảng xếp hạng của Standard & Poor
STT
Loại xếp hạng
Ý nghĩa
1
AAA
Đây là mức xếp hạng cao nhất. Khả năng hoàn trả khoản vay của KH này là đặc biệt tố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2577.doc