Chuyên đề Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa

Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, chuyển nền kinh tế từ hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Trải qua nhiều khó khăn thử thách, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể trên cả 3 phương diện : kinh tế, chính trị, xã hội. Để đạt được những thành tựu đó có đóng góp không nhỏ của ngành ngân hàng với vai trò là mắt xích chốt yếu trong sự vận hành của nền kinh tế.

Đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu, đem lại khoảng 90% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Đây là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế. Nhưng hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động đến bản thân ngân hàng mà còn tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Chính vì vậy công tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các ngân hàng quan tâm.

Tại ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa, qua quá trình 16 năm hình thành và phát triển, chi nhánh đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, không ngừng lớn mạnh. Tuy nhiên, công tác hạn chế rủi ro tín dụng vẫn chưa đạt hiệu quả cao biểu hiện cụ thể qua tỷ lệ nợ nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5.

Xuất phát từ tính cấp thiết của thực tiễn, đề tài : “Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa” được lựa chọn để nghiên cứu chuyên sâu về rủi ro tín dụng trên bình diện lý thuyết cũng như thực tiễn để từ đó đưa ra 1 số ý kiến đóng góp cho ngân hàng và các cơ quan chức năng để góp phần hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung.

Ngoài lời mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,chuyên đề được chia thành 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa.

Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa.

 

 

doc73 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, chuyển nền kinh tế từ hành chính tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Trải qua nhiều khó khăn thử thách, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể trên cả 3 phương diện : kinh tế, chính trị, xã hội. Để đạt được những thành tựu đó có đóng góp không nhỏ của ngành ngân hàng với vai trò là mắt xích chốt yếu trong sự vận hành của nền kinh tế. Đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu, đem lại khoảng 90% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Đây là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế. Nhưng hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động đến bản thân ngân hàng mà còn tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Chính vì vậy công tác hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các ngân hàng quan tâm. Tại ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa, qua quá trình 16 năm hình thành và phát triển, chi nhánh đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, không ngừng lớn mạnh. Tuy nhiên, công tác hạn chế rủi ro tín dụng vẫn chưa đạt hiệu quả cao biểu hiện cụ thể qua tỷ lệ nợ nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5. Xuất phát từ tính cấp thiết của thực tiễn, đề tài : “Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa” được lựa chọn để nghiên cứu chuyên sâu về rủi ro tín dụng trên bình diện lý thuyết cũng như thực tiễn để từ đó đưa ra 1 số ý kiến đóng góp cho ngân hàng và các cơ quan chức năng để góp phần hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương chi nhánh Đống Đa nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung. Ngoài lời mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,chuyên đề được chia thành 3 chương: Chương 1: Tổng quan về rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa. Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh Đống Đa. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Hoạt động tín dụng Khái niệm về tín dụng Tín dụng được hiểu là quan hệ giữa 2 chủ thể trong đó 1 bên chuyển giao cho bên kia một lượng giá trị nhất định với điều kiện bên kia phải hoàn trả sau một thời gian sử dụng nhất định. Mối quan hệ này có các đặc điểm như sau: Một là, lượng giá trị này có thể là tiền hay hiện vật như máy móc thiết bị, nhà xưởng… Hai là, bên được chuyển giao lượng giá trị chỉ được sử dụng trong một thời gian nhất định rồi phải hoàn trả Ba là, lượng giá trị hoàn trả thường lớn hơn lượng giá trị chuyển giao ban đầu Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa 2 chủ thể, một bên là ngân hàng còn bên kia là các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hoạt động cấp tín dụng ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ sau: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Vai trò của tín dụng Đối với ngân hàng Hoạt động tín dụng đem lại thu nhập cho ngân hàng. Đây là hoạt động trọng yếu của tất cả các ngân hàng thương mại. Cũng nhờ hoạt động tín dụng mà ngân hàng có thể mở rộng các dịch vụ khác nhờ tận dụng các mối quan hệ có được thông qua hoạt động này. Đối với người đi vay Nhờ có hoạt động tín dụng mà nhu cầu sử dụng vốn của người thiếu vốn được đáp ứng. Sự thiếu vốn này có thể bắt nguồn từ nhu cầu đầu tư vào tài sản lưu động, tài sản cố định của các doanh nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình. Nhờ đó mà hoạt động sản xuất kinh doanh được thông suốt, không bị gián đoạn. Đối với nền kinh tế Tín dụng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng nếu có hiệu quả sẽ thúc đẩy sự phát triển của cả 3 lĩnh vực là kinh tế, xã hội và văn hóa. Với chức năng tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, nguồn vốn nhàn rỗi trong cư dân được ngân hàng thương mại huy động để chuyển giao cho các chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn. Ngoài ra, tín dụng còn là một công cụ hữu hiệu trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động tín dụng là hoạt động tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Để điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả, Ngân hàng Nhà nước luôn phải quan tâm điều hành chính sách về lãi suất cũng như chính sách tín dụng của các ngân hàng. Và với hoạt động tín dụng, các ngân hàng đã giải quyết một lượng lớn lao động cho xã hội, đem lại thu nhập ổn định cho nhiều cán bộ tín dụng. Phân loại tín dụng Có nhiều tiêu chí để phân loại tín dụng khác nhau. Căn cứ vào thời hạn của tín dụng Tín dụng được chia thành 3 loại là tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ một năm (12 tháng) trở xuống, thường được cho vay với mục đích bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động cho các doanh nghiệp và để tiêu dùng, sinh hoạt của các cá nhân, hộ gia đình. Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm hoặc từ 1 năm đến 5 năm tùy theo cách phân loại của mỗi ngân hàng. Tín dụng trung hạn nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh hoặc đầu tư nuôi trồng một số loại cây trồng vật nuôi… Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 3 năm hoặc trên 5 năm, được cấp để tài trợ đầu tư xây dựng cơ bản như nhà xưởng, sân bay, cầu, đường, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, các dự án có thời gian hoàn vốn dài… Căn cứ vào hình thức tài trợ Tín dụng được chia thành các nghiệp vụ sau: Cho vay: là việc ngân hàng đưa 1 khoản tiền cho khách hàng sử dụng với cam kết là khách hàng phải hoàn trả cả gốc cộng thêm một phần lãi trong khoảng thời gian nhất định. Đây là loại tài sản lớn nhất trong hoạt động tín dụng. Nghiệp vụ cho vay thường được thể hiện qua 2 chỉ tiêu là doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Chiết khấu giấy tờ có giá: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng một số tiền dựa trên giá trị của giấy tờ có giá trừ đi một khoản phí (phí chiết khấu và phí dịch vụ) và ngân hàng sẽ là bên nắm giữ giấy tờ có giá này sau khi thực hiện chiết khấu cho khách hàng. Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung hạn và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê (ngân hàng) với khách hàng thuê. Ngân hàng sẽ mua sắm tài sản cho khách hàng thuê và sau khi hết thời hạn cho thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng. Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ trả nợ hộ khách hàng của mình trong trường hợp khách hàng không thực hiện các nghĩa vụ tài chính này. Bản chất là ngân hàng không phải xuất tiền ra ngay tại thời điểm bảo lãnh mà cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để kinh doanh sản xuất. Tuy nhiên, nếu sự kiện bảo lãnh xảy ra, khách hàng sẽ phải nhận nợ của ngân hàng và phải hoàn trả số tiền đã được ngân hàng trả thay. Căn cứ vào tính chất đảm bảo của tín dụng Tín dụng được chia thành tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có bảo đảm nhưng ngân hàng vẫn có thể cấp tín dụng không cần tài sản đảm bảo cho khách hàng có uy tín, làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính lành mạnh hoặc giá trị món vay tương đối nhỏ so với lượng vốn chủ sở hữu của bên đi vay. Ngoài ra cũng có các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Căn cứ vào các tiêu chí khác Còn rất nhiều các chỉ tiêu khác để phân loại tín dụng như theo ngành kinh tế, tín dụng được chia thành tín dụng cho ngành công nghiệp, nông nghiệp…; theo mục đích thì tín dụng được chia thành tín dụng cho sản xuất, tín dụng cho tiêu dùng… Rủi ro tín dụng 1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng 1.2.1.1. Khái niệm Có rất nhiều học giả đã nghiên cứu về rủi ro và đưa ra nhiều khái niệm về rủi ro theo quan điểm của họ. Frank Knight, một học giả người Mỹ đầu thế kỷ XX định nghĩa: “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”. Alain Willet lại cho rằng: “Rủi ro là sự bất trắc liên quan đến biến cố không mong đợi”. Tuy nhiên, định nghĩa về rủi ro trong tài chính được nhiều người đồng ý là: rủi ro là sự khác biệt giữa giá trị kỳ vọng của biến cố và giá trị thực tế của biến cố đó. Thông thường, khi nhắc đến rủi ro, người ta thường chỉ nhắc đến các biến cố không có lợi, gây ảnh hưởng tiêu cực. Các nhà toán học đã tìm ra cách để lượng hóa rủi ro. Các đại lượng toán học được dùng để đo lường rủi ro có thể là phương sai, độ lệch chuẩn. Các đại lượng này thể hiện mức biến động hay mức rủi ro của biến xem xét. Rủi ro tín dụng được hiểu là việc khách hàng không hoặc không có khả năng thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng như ngân hàng kỳ vọng khi cấp tín dụng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm ngân hàng suy giảm lợi nhuận từ hoạt động tín dụng và làm ngân hàng bị mất vốn. Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005, “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng của các tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. 1.2.1.2. Các biểu hiện của rủi ro tín dụng Như định nghĩa đã nêu ra ở trên, rủi ro tín dụng xảy ra khi người đi vay không trả được nợ gốc và nợ lãi đúng hạn, đầy đủ. Theo phương pháp quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia rủi ro tín dụng thành 4 cấp độ theo mức độ rủi ro. Không thu được lãi đúng hạn: Cấp độ thấp nhất khi người đi vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó ngân hàng sẽ chuyển số tiền lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Biểu hiện này được xếp vào mức độ rủi ro thấp nhất vì ngoại trừ trường hợp khách hàng cố ý không trả nợ, chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ sự thiếu cân đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ của khách hàng, hay nói cách khác, có sự không cân đối trong chính sách quản lý ngân quỹ của khách hàng. Không thu được vốn đúng hạn: Khi không thu được vốn đúng hạn thì tình hình sẽ nghiêm trọng hơn vì khoản vốn có vay lớn hơn nhiều so với tiền lãi của khoản tín dụng đó. Khi đó, ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang khoản mục nợ quá hạn phát sinh . Khoản mục này này phát sinh vào thời điểm đáo hạn của hợp đồng tín dụng. Tuy mức độ có nghiêm trọng hơn biểu hiện thứ nhất nhưng thực ra, ngân hang chưa mất vốn mà có thể do tiến độ thực hiện dự án kinh doanh vay vốn của khách hàng bị chậm so với kế hoạch. Không thu được đủ lãi: Khi ngân hàng không thu được đủ lãi thì chứng tỏ hoạt động kinh doanh của khách hang yếu kém đến mức không thể thực hiện đầy đủ trả nợ lãi đối với ngân hàng. Khi đó ngân hàng phải chuyển số tiền lãi chưa thu được vào khoản mục lãi treo đóng băng và thậm chí phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách hàng. Không thu đủ vốn cho vay: Đây là biểu hiện cao nhất của rủi ro tín dụng. Lúc này, ngân hàng sẽ phải chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, khép lại một hợp đồng tín dụng không hiệu quả. Trên đây là 4 biểu hiện của rủi ro tín dụng theo mức độ rủi ro tăng dần. Cách phân loại này sẽ giúp ngân hàng có các biện pháp xử lý trong từng trường hợp. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng liên quan đến khách hang không phải bao giờ cũng xảy ra tuần tự như 4 biểu hiện nêu trên. Có những trường hợp khách hàng trả lãi đủ và đúng hạn nhưng rút cuộc lại không thể hoàn trả lại giá trị món vay. Vì vậy, khi nghiên cứu và quản trị rủi ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá hạn phát sinh. Còn ở trường hợp xuất hiện lãi treo đóng băng hay nợ không có khả năng thu hồi thì được coi là rủi ro đã xảy ra thực sự nên thường được xem xét để tìm ra biện pháp khắc phục cũng như rút ra bài học kinh nghiệm. 1.2.2. Tác động của rủi ro tín dụng 1.2.2.1. Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng Những khoản tín dụng gặp rủi ro gây ra cho ngân hàng những thiệt hại về vốn cho vay cũng như lãi thu từ hoạt động tín dụng tức là thu nhập của ngân hàng. Rõ ràng lợi nhuận của ngân hàng cũng giảm. Ngay cả khi có thể thu hồi được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng ảnh hưởng tới việc tái đầu tư của ngân hàng và kế hoạch tài chính của ngân hàng đó. 1.2.2.2. Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng Rủi ro tín dụng làm việc thu hồi lãi và vốn vay của ngân hàng gặp khó khăn trong khi ngân hang vẫn phải đều đặn trả lãi vốn huy động đúng kỳ hạn. Chính điều này sẽ làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng do có sự lệch pha giữa dòng tiền ra và dòng tiền vào của ngân hàng. 1.2.2.3. Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng Nền tảng cho sự ra đời và hoạt động của ngân hàng chính là uy tín của ngân hàng hay là niềm tin của các chủ thể trong nền kinh tế đối với ngân hàng. Nếu ngân hàng để rủi ro tín dụng xảy ra thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kém hiệu quả. Điều này làm uy tín của ngân hàng giảm sút. Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc huy động vốn, làm giảm quy mô hoạt động của ngân hàng, đồng thời ngân hàng có thể đối mặt với sự rút tiền ồ ạt của người gửi tiền dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá sản ngân hàng. Không chỉ mất uy tín đối với khách hàng mà bản thân ngân hàng cũng phải đối mặt với sự mất lòng tin của các ngân hàng bạn cũng như các đối tác chiến lược khác. 1.2.2.4. Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản ngân hàng Khi mất uy tín, ngân hàng sẽ gặp vô vàn khó khăn trong việc tồn tại và phát triển. Hoạt động huy động vốn gặp khó khăn, chi phí huy động vốn cao, ngân hàng sẽ phải đầu tư vào những dự án có rủi ro cao hơn để tìm kiếm lợi nhuận; thêm vào đó có thể có sự rút tiền gửi ồ ạt của người gửi tiền; sự mất lòng tin của ngân hàng bạn trong hệ thống…; tất cả những điều đó là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến sự phá sản của ngân hàng. Nếu một ngân hàng bị phá sản thì uy tín của hệ thống ngân hàng cũng giảm sút, gây ra những khó khăn cho các ngân hàng khác, ngay cả các ngân hàng đang hoạt động tốt. 1.2.3. Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan Đây là các nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng. - Chất lượng cán bộ không đáp ứng được yêu cầu của công việc, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai… là một trong các nguyên nhân của rủi ro tín dụng đến từ phía ngân hàng. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng miền của đất nước thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng cũng như lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. Nếu không thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thì việc cán bộ tín dụng đánh giá sai về khách hàng hoàn toàn có thể xảy ra. Hơn nữa, nếu cán bộ tín dụng không giữ mình thì rất dễ bị cám dỗ, tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng. - Bên cạnh đó, nhiều khi ngân hàng chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà xem nhẹ mục tiêu đảm bảo an toàn cho bản thân ngân hàng và cho toàn hệ thống. Trước sự cạnh tranh khốc liệt trong ngành ngân hàng như hiện nay, việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị phần trong từng hoạt động nghiệp vụ là hết sức khó khăn. Khi đã có được mối quan hệ với khách hàng thì ngân hàng tiếp tục duy trì mối quan hệ đó. Các ngân hàng hay có các khuyến mại đối với khách hàng của mình làm sai lệch đi lãi suất tín dụng ghi trên hợp đồng tín dụng. Điều này là hết sức nguy hiểm bởi lẽ thực chất các ngân hàng đang nâng cao chi phí huy động cũng như chi phí sử dụng vốn của mình, làm giảm lợi nhuận ngân hàng. - Một nguyên nhân chủ quan khác là việc các ngân hàng thương mại không có một quy trình tín dụng đúng đắn. Quy trình tín dụng là các bước mà cán bộ tín dụng phải thực hiện khi tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng. Với một quy trình tín dụng chặt chẽ, cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng hơn trong việc tác nghiệp, hạn chế rủi ro đạo đức của các cán bộ này cũng như rủi ro lựa chọn trong việc sàng lọc khách hàng. Đây là công cụ hữu hiệu của việc hạn chế rủi ro do thông tin bất cân xứng mà trong tài chính gọi là nguyên tắc sàng lọc. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng. Quy trình tín dụng nếu không được thực hiện trên cơ sở sự tiến hành độc lập giữa chức năng kinh doanh, chức năng quản lý và chức năng tác nghiệp hoặc quy trình tín dụng không đầy đủ đều làm tăng mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. - Nguyên nhân cuối cùng trong nhóm nguyên nhân chủ quan là việc ngân hàng không có được một cơ sở công nghệ hiện đại. Với công nghệ hiện đại, ngân hàng vừa giảm được chi phí chi phí hoạt động nhờ giảm bớt lao động thủ công, vừa hạn chế rủi ro đến từ phía con người do máy móc luôn chính xác và trung thực. Hơn thế, đây cũng là xu hướng phát triển của hệ thống ngân hàng thế giới hiện nay. Các cuộc gặp trực tiếp giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng sẽ dần được thay thế bằng các giao dịch điện tử và hoàn toàn tự động. 1.2.3.2. Nguyên nhân khách quan Các nguyên nhân khách quan được chia thành hai nhóm nhỏ. Thứ nhất, nhóm nguyên nhân bất khả kháng. Các nguyên nhân này tác động đến người vay, làm họ mất khả năng thanh toán của họ cho ngân hàng. Ví dụ như chiến tranh, thiên tai, sự bất ổn về chính trị…, vượt quá tầm dự báo và kiểm soát của cả người vay lẫn người cho vay. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến người vay. Có những khách hàng sẽ thích nghi được với những biến cố này, nhưng cũng có những khách hàng bị tổn thất và không còn khả năng hoàn trả lãi cũng như vốn vay. Thứ hai, nhóm nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay. Nhiều doanh nghiệp do thiếu năng lực về quản lý tài chính, lại không có tài sản thế chấp hợp lệ do đó không đủ điều kiện để được vay vốn tại ngân hàng. Họ cố ý lập các giấy tờ giả mạo, mua chuộc cán bộ tín dụng để có thể đạt được mục đích của mình. Cũng có những trường hợp khách hàng sau khi nhận được vốn, không sử dụng theo như dự án vay vốn mà đầu tư vào những dự án rủi ro nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao. Về mặt lý thuyết, vấn đề này được gọi là vấn đề thông tin bất đối xứng. Rủi ro thông tin bất đối xứng có 2 loại, một là rủi ro lựa chọn nghĩa là các khách hàng rủi ro nhất lại là những người dễ được chấp nhận cấp tín dụng nhất và hai là rủi ro đạo đức nghĩa là khách hàng cố ý sử dụng sai mục đích khoản vốn vay, phục vụ cho mục đích cá nhân hoặc cố tình chiếm dụng vốn ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều khi do sự cạnh tranh khốc liệt trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của khách hàng luôn gặp khó khăn và khó lường trước. Rủi ro luôn tồn tại đối với khách hàng, do đó gây ra rủi ro tín dụng đối với ngân hàng. 1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng 1.2.4.1. Nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thỏa thuận trên hợp đồng tín dụng hoặc ngân hàng phát hiện khách hàng sử dụng sai mục đích, hoặc tài sản đảm bảo bị giảm giá trị hoặc khách hàng bị phá sản. Dư nợ là số tiền ngân hàng đang cho vay tính đến thời điểm tính. Rủi ro tín dụng thường được các ngân hàng đo bằng tỷ lệ nợ quá hạn và nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Tuy nhiên mỗi ngân hàng có thể có những cách định lượng chỉ tiêu khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ quá hạn là một lời cảnh báo cho ngân hàng rằng hy vọng thu lại tiền vay trở nên mong manh và ngân hàng cần có các biện pháp giải quyết. 1.2.4.2 Nợ có vấn đề (có khả năng trở thành nợ quá hạn) Tỷ lệ càng cao, tốc độ tăng cho thấy rủi ro cao và ngược lại. Nhiều khoản cho vay tuy chưa xếp vào nợ quá hạn song ngân hàng lại nhận thấy rủi ro tăng (có các dấu hiệu không tốt như doanh thu sụt giảm, chi phí gia tăng…). Chỉ tiêu này cũng phụ thuộc vào các tiêu chí đánh giá của mỗi ngân hàng. Các khoản nợ có vấn đề nếu được phát hiện sớm và được áp dụng các biện pháp, quy trình thích hợp sẽ ngăn ngừa các khoản nợ quá hạn phát sinh, giảm khả năng tổn thất. 1.2.4.3 Nợ khó đòi Nợ khó đòi là các khoản nợ quá hạn đã qua một kỳ gia hạn nợ. Khi xuất hiện nợ khó đòi thì cũng là lúc xuất hiện lời cảnh báo cho ngân hàng rằng hy vọng thu hồi vốn vay đã trở nên mong manh. Chỉ tiêu này cũng phụ thuộc vào tiêu chí đánh giá của mỗi ngân hàng thương mại. Với nhiều ngân hàng, khi con nợ bị thua lỗ triền miên thì ngân hàng đưa vào nợ khó đòi mặc dù khoản nợ đó vẫn chưa đến hạn. 1.2.4.4 Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, “Các ngân hàng cần trích lập dự phòng rủi ro. Khoản dự phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi phí hoạt động. Việc phân loại tài sản có mức trích, phương pháp lâppj khoản dự phòng và sử dụng các khoản dự phòng để xử lý các rủi ro được thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định sau khi thông nhất với bộ trưởng Bộ tài chính”. Về bản chất, tại thời điểm trích lập dự phòng, rủi ro tín dụng chưa xảy ra. Khoản trích lập dự phòng này giúp ngân hàng bớt sốc nếu như rủi ro xảy ra. Đây là biện pháp khắc phục hậu quả của rủi ro tín dụng và cũng để ước lượng giá trị các khoản cho vay có khả năng thu hồi. Dư nợ ròng = Dư nợ - Dự phòng rủi ro tín dụng Ngân hàng phải luôn tính toán sao cho thu nhập sau thuê của ngân hàng đủ để tăng vốn chủ sở hữu của ngân hàng sau khi đã trích lập dự phòng. Ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại cần thực hiện phân loại nợ trước khi trích lập dự phòng. Theo điều 1 khoản 3 quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về việc sử đổi bổ sung một số điều của quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ theo 5 nhóm như sau: - Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: + Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. + Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cẩ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại. - Nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm: + Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày. + Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu). - Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm): + Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2. + Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khả năng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đòng tín dụng. - Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm: + Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày. + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu. + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai. - Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: + Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày. + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu. + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai. + Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn. + Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý. Điều 2 và điều 3 của QĐ18 cũng nêu rõ: - Đối với các khoản nợ quá hạn, tổ chức tín dụng phân loại lại vào nhóm nợ có có rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: + Khách hàng trả đầy đủ phần nợ gốc và lãi bị quá hạn (kể cả lãi áp dụng đối với nợ gốc quá hạn) và nợ gốc và lãi của các kỳ hạn trả nợ tiếp theo trong thời gian tối thiểu sáu (06) tháng đối với khoản nợ trung và dài hạn, ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn. + Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ bị quá hạn đã được xử lý, khắc phục. + Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) đánh giá là khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại. - Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng phân loại lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: + Khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại trong thời gian tối thiểu sáu (06) tháng đối với các khoản nợ trung và dài hạn, ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn được cơ cấu lại. + Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ đã được xử lý, khắc phục. + Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) để đánh giá là khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã được cơ cấu lại còn lại. - Tổ chức tín dụng phải chuyển khoản nợ vào nhóm có rủi ro cao hơn trong các trường hợp sau đây: + Toàn bộ dư nợ của một khách hàng tại một tổ chức tín dụng phải được phân loại vào cùng một nhóm nợ. Đối với khách hàng có từ hai (02) khoản nợ trở lên tại tổ chức tín dụng mà có bất cứ một khoản nợ nào

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3902.doc
Tài liệu liên quan