Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế nước ta mới thực sự khởi sắc. Sự tồn tại đồng thời của các thành phần kinh tế tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế. Chính vì vậy, các đơn vị sản xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển được thì cần phải có sự độc lập tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và đặc biệt là sản xuất kinh doanh phải mang lại hiệu quả tức là đem lại lợi nhuận. Kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao là mục đích của tất cả các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế thị trường. Đối với các đơn vị sản xuất, lợi nhuận chính là đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất, kích thích mạng mẽ đến mọi mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các đơn vị này là phải đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh phải thu được lợi nhuận cao.
Để giải quyết vấn đề quan trọng này, qua quá trình học tập tại trường đại học Kinh Tế Quốc Dân và thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty Cơ Khí Hà Nội, được sự chỉ đạo giúp đỡ tận tình của Cô giáo TS Phan Thu Hà và các thầy cô giáo trong bộ môn, các cán bộ lãnh đạo của Công ty và đặc biệt là các cô chú, các anh chị trong phòng tài chính kế toán, em đã dần dần tiếp cận thực tiễn. Em nhận thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả chưa cao, vẫn còn một số tồn tại. Nếu giải quyết tốt một số tồn tại này thì chắc chắn hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty sẽ được nâng cao.
Xuất phát từ lý do trên, em xin chọn đề tài: Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung của chuyên đề bao gồm 3 phần:
Chương I: Lợi nhuận và sự cần thiết phải phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay.
Chương II: Thực trạng về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội ( 2001-2002)
Chương III: Một số giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội trong thời gian tới.
69 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 950 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế nước ta mới thực sự khởi sắc. Sự tồn tại đồng thời của các thành phần kinh tế tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế. Chính vì vậy, các đơn vị sản xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển được thì cần phải có sự độc lập tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và đặc biệt là sản xuất kinh doanh phải mang lại hiệu quả tức là đem lại lợi nhuận. Kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao là mục đích của tất cả các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế thị trường. Đối với các đơn vị sản xuất, lợi nhuận chính là đòn bẩy kinh tế có hiệu quả nhất, kích thích mạng mẽ đến mọi mặt của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các đơn vị này là phải đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh phải thu được lợi nhuận cao.
Để giải quyết vấn đề quan trọng này, qua quá trình học tập tại trường đại học Kinh Tế Quốc Dân và thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty Cơ Khí Hà Nội, được sự chỉ đạo giúp đỡ tận tình của Cô giáo TS Phan Thu Hà và các thầy cô giáo trong bộ môn, các cán bộ lãnh đạo của Công ty và đặc biệt là các cô chú, các anh chị trong phòng tài chính kế toán, em đã dần dần tiếp cận thực tiễn. Em nhận thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả chưa cao, vẫn còn một số tồn tại. Nếu giải quyết tốt một số tồn tại này thì chắc chắn hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty sẽ được nâng cao.
Xuất phát từ lý do trên, em xin chọn đề tài: Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung của chuyên đề bao gồm 3 phần:
Chương I: Lợi nhuận và sự cần thiết phải phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay.
Chương II: Thực trạng về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội ( 2001-2002)
Chương III: Một số giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Cơ Khí Hà Nội trong thời gian tới.
.
Chương I
Lợi nhuận và các biện pháp tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay
I. Lợi nhuận của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ với mục đích chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp và phải chịu trách nhiệm bề mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình theo kiểm lời ăn lỗ chịu. Cơ chế này buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có lãi để tồn tại và phát triển. Do vậy, lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường là một mục tiêu hàng đầu, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và là điều kiện sống còn của mỗi doanh nghiệp.
1. Sự hình thành của lợi nhuận doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp nói chung tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bắt đầu quá trình dùng tiền mua sắm nguyên vật liệu, nhiên liệu và những vật tư cần thiết khác để sản xuất tạo ra sản phẩm và sau đó đem tiêu thụ trên thị trường. Qua đó có thể khái quát bằng sơ đồ sau:
T - H…SX…H’-T’ = T + t ( lợi nhuận chính là t)
Kết thúc mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thu được những khoản tiền nhất định gọi là doanh thu. Doanh thu đó sau khi đã trừ đi các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế gián thu, thuế TTĐB. Còn lại là doanh thu thuần. Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu thuần và chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất - kinh doanh để đạt được doanh thu đó.
2. Nội dung của lợi nhuận:
Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường rất phong phú đa dạng. Để hạn chế và phân bố rủi ro, doanh nghiệp tiến hành nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp thường mở rộng hoạt động của mình không chỉ bao gồm hoạt động sản xuất kinh doanh chính. Do vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp không đơn thuần bao gồm lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn bao gồm lợi nhuận từ các hoạt động khác.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường thường bao gồm:
Hoạt động sản xuất kinh doanh: là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ.
Hoạt động tài chính: là hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn với mục đích kiếm lời như góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất động sản, mua bán ngoại tệ, cho vay vốn…
Hoạt động bất thường: là hoạt động diễn ra không thường xuyên, không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện như giải quyết các vấn đề tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, thanh lý nhượng bán tài sản cố định, xử lý tài sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân…
Trên cơ sở ba hoạt động chính này, lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành từ ba bộ phận sau:
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
Về nguyên tắc, khi phân tích lợi nhuận doanh nghiệp, cần phải phân tích tất cả các bộ phận cấu thành nên tổng lợi nhuận. Tuy nhiên hoạt động sản xuất kinh doanh đóng vai trò chủ đạo và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là bộ phận cơ bản trong tổng lợi nhuận, vì vậy mà khi tiến hành phân tích lợi nhuận doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào bộ phận lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế là tỷ trọng của mỗi bộ phân lợi nhuận trong tổng số lợi nhuận có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp do các lĩnh vực kinh doanh khác nhau cũng như môi trường kinh tế khác nhau.
2.1 Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp:
Lợi nhuận doanh nghiệp
=
Lợi nhuận
sản xuất
kinh doanh
+
Lợi nhuận hoạt động tài chính
+
Lợi nhuận hoạt động bất thường
2.1.1 Xác định lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ trong doanh nghiệp.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định như sau:
LN = ồQiPi – ( QiZi + Qi*Cpi + QiTi)
Trong đó
- LN: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Qi, Pi, Zi, CPi, Ti: lần lượt là khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ, giá bán đơn vị , giá vốn hàng bán, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế GTGT của sản phẩm thứ i.
Như vậy, bộ phận lợi nhuận này được xác định là chênh lệch giữa doanh thu bán hàng thuần với tổng chi phí tương ứng với số sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ.
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh
=
Doanh thu thuần
Chi phí
hoạt động sản xuất kinh doanh
_
*Xác định doanh thu thuần
Doanh thu thuần
=
Doanh thu bán hàng
_
Các khoản
giảm trừ chi phí
=
Doanh thu bán hàng
_
Giảm giá hàng bán
Doanh thu hàng bán bị trả lại
Thuế
GTGT, TTĐB, XK phải nộp
_
_
Trong đó :
Doanh thu thuần: Là chênh lệch giữa tổng doanh thu và các khoản giảm trừ doanh thu.
Doanh thu bán hàng : Là tổng giá trị được thực hiện do việc bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng. Thời điểm để xác định doanh thu bán hàng là từ khi được người mua chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc tiền đã được thanh toán hay chưa.
Các khoản giảm trừ doanh thu:
+ Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao hàng không đúng thời gian như trong hợp đồng và còn bao gồm khoản thưởng cho những khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định đã tiến hành mua một khối lượng hàng hoá lớn hoặc giảm trừ cho những khách hàng mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt.
+ Doanh thu bán hàng bị trả lại: là doanh thu số hàng đã được coi là tiêu thụ ( đã chuyển quyền sở hữu, đã thu tiền hay được người mua chấp nhận thanh toán) nhưng bị người mua từ chối trả lại do người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã kí kết.
+ Các khoản thuế phải nộp, như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu.
*Xác định chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh:
Chi phí tương ứng với lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho khách hàng trong một kì (tương ứng với kì tính doanh thu) được xác định bằng công thức:
Chi phí hoạt động sản xuất
kinh doanh
=
Gía vốn hàng bán
+
Chi phí QLDN phân bổ cho lượng hàng tiêu thụ trong kỳ
+
Chi phí bán hàng phân bổ cho lượng hàng tiêu thụ trong kỳ
(1) Giá vốn hàng bán được xác định như sau:
+ Đối với doanh nghiệp sản xuất:
Gía vốn hàng bán
=
Gía thành
sản xuất
+
Chênh lệch thành phẩm tồn kho
Chênh lệch thành phẩm tồn kho
=
Thành phẩm
tồn kho đầu kỳ
_
Thành phẩm
tồn kho cuối kỳ
+ Đối với doanh nghiệp thương mại:
Chênh lệch
hàng hoá tồn kho
=
Hàng hoá tồn kho đầu kỳ
_
Hàng hoá tồn kho cuối kỳ
Gía vốn hàng bán
=
Gía vốn hàng mua
+
Chênh lệch hàng hoá tồn kho
(1)Giá vốn hàng bán bao gồm ba yếu tố chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
(2) Chi phí bán hàng : là những khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong kỳ như chi phí nhân viên bán hàng, chi phí dụng cụ bán hàng, chi phí quản cáo...
(3) Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí phát sinh có liên quan chung đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ hoạt động nào như chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và chi phí chung khác.
Như vậy, để xác định lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần phải căn cứ vào toàn bộ số liệu kế toán của kỳ sản xuất. Mặc dù những khái niệm và công thức trên rất đơn giản nhưng trong thực tiễn để đảm bảo cho việc tính toán chính xác thì lại rất phức tạp.
2.1.2 Xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: là lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính như lợi nhuận do tham gia góp vốn liên doanh, do hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, cho thuê tài sản, cho vay vốn, mua bán ngoại tệ.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác đinh là chêng lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính:
=
Lợi nhuận
hoạt động tài chính
Thu nhập
hoạt động tài chính
_
Chi phí
hoạt động tài chính
Trong đó:
(1) Thu nhập hoạt động tài chính: là những khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn với mục đích kiếm lời như góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất động sản, mua bán ngoại tệ, cho vay vốn.
(2) Chi phí hoạt động tài chính: Là những chi phí do hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn như những khoản chi cho góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, chi trả lại vây, chiết khấu bán hàng, chênh lệch tỷ giá hối đoái trong quá trình thanh toán công nợ.
2.1.3 Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường : là lợi nhuận thu được từ các hoạt động xảy ra ngoài dự kiến của doanh nghiệp như lợi nhuận từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, từ các khoản nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu được, từ việc giải quyết các vấn đề tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, xử lý tài sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân...
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường được xác định là chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động bất thường và chi phí hoạt động bất thường.
Lợi nhuận
hoạt động bất thường
=
Thu nhập
hoạt động bất thường
_
Chi phí
hoạt động bất thường
Trong đó:
(1) Thu nhập từ hoạt động bất thường: là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu không xảy ra một cách thường xuyên như thu tiền phạt do vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi, thu về thanh lý nhượng bán tài sản cố định....
(2) Chi phí hoạt động bất thường: là những khoản chi do các nghiệp vụ riêng biệt với các hoạt động thông thường của doanh nghiệp như chi phạt thuế, truy nộp thuế, phạt tiền do vi phạm hợp đồng, chi thanh lý nhượng bán tài sản cố định, chi cho xử lý tài sản thừa thiếu chưa rõ nguyên nhân...
Tóm lại, việc xác định lợi nhuận doanh nghiệp phải xuất phát từ việc xác định các bộ phận cấu thành lợi nhuận. Cách xác định lợi nhuận như trên là đơn giản dễ tính, vì thế nó được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp.
Tuy vây, đối với các doanh nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng thì khối lượng công việc sẽ rất lớn. Nó đòi hỏi việc tập hợp chi phí chung và phân bổ chúng cho các đối tượng thích hợp phải chính xác, trung thực thì lợi nhuận mới không bị sai lệch.
3. Vai trò của lợi nhuận.
Để thấy được vai trò của lợi nhuận, trước hết cần phải biết lợi nhuận được sử dụng như thế nào.
Phân phối lợi nhuận không phải là phân chia số tiền lãi một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp. Việc phân phối đúng đắn sẽ trở thành động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp tục công việc kinh doanh của mình.
Lợi nhuận thực hiện cả năm được phân phối theo thứ tự như sau:
Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định- nghị định 59 CP.
Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Trả các khoản tiền bị phạt, các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ chưa được trừ khi xây dựng thuế thu nhập phải nộp.
Trả các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế.
Trích lập các quỹ đặc biệt theo tỷ lệ do nhà nước quy định( đối với doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy định).
Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp gồm:
Quỹ đầu tư phát triển: dùng để đầu tư phát triển kinh doanh.
Quỹ dự phòng tài chính: dùng để bù đắp những thiệt hại về tài sản mà doanh nghiệp phải chịu trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: dùng để chi cho việc đào tạo các công nhân do thay đổi công nghệ, đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ, trợ cấp mất việc làm cho lao động thường xuyên trong doanh nghiệp nay bị mất việc làm.
Quỹ phúc lợi: dùng để đầu tư cho các công trình phúc lợi của doanh nghiệp, chi cho các hoạt động phúc lợi của doanh nghiệp, làm công tác từ thiện...
Quỹ khen thưởng: dùng để thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho công nhân viên trong doanh nghiệp, thưởng đột xuất cho các cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến mang lại hiệu quả trong kinh doanh…
Từ việc phân phối quĩ lợi nhuận doanh nghiệp, ta thấy lợi nhuận không những duy trì sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp nói riêng mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế nói chung. Lợi nhuận đáp ứng và kết hợp hài hợp các lợi ích, lợi ích của người lao động, lợi ích của doanh nghiệp và của toàn xã hội.
3.1. Lợi nhuận đối với doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế cơ chế thị trường, lợi nhuận giữ vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy rằng mục tiêu cuối cùng của mỗi doanh nghiệp không phải là tối đa hóa lợi nhuận mà là tối đa hóa lợi ích chủ sở hữu nhưng cũng không phải vì thế mà vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp có thể bị phủ nhận. Lợi nhuận vẫn được coi là một đòn bẩy kinh tế quan trọng, là động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp từ các lĩnh vực sản xuất ít người tiêu dùng đến các lĩnh vực sản xuất có nhiều người tiêu dùng hơn. Lợi nhuận thúc đẩy các nhà sản xuất kinh doanh tìm mọi biện pháp để nâng cao năng suất lao động, sử dụng những công nghệ ngày càng tiên tiến hiện đại hơn, sử dụng nguyên vật liệu một cách tiết kiệm hợp lý…nhằm tối thiểu hóa chi phí và tăng doanh thu để nâng cao lợi nhuận.
Lợi nhuận là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thật vậy, lợi nhuận chính là thước đo để doanh nghiệp tự đánh giá kết quả của những nỗ lực của doanh nghiệp từ khâu tìm hiểu thị trường, tiến hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đến phân phối sản phẩm. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp bởi bản thân nó là một chỉ tiêu kế toán hết sức tổng hợp. Có thể nói lợi nhuận vừa thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình lại vừa đánh giá chính hiệu quả đó.
Lợi nhuận có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, vì vậy việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Thật vậy, lợi nhuận sau khi nộp thuế cho nhà nước và chi trả các khoản phạt và các chi phí khác sẽ được dùng để hình thành và phát triển các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp. Các quỹ này thể hiện khả năng tài chính của doanh nghiệp mà để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng. Có tự chủ về tài chính, doanh nghiệp mới có thể thực hiện tái sản xuất mở rộng. Hơn nữa lợi nhuận còn là một chỉ tiêu quan trọng mà bất kỳ một nhà đầu tư nào trước khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp, một đối tác trước khi quyết định làm ăn với doanh nghiệp hay một nhà ngân hàng trước khi quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp đều phải quan tâm xem xét.
Do đó rõ ràng là lợi nhuận là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt.
3.2 Lợi nhuận đối với người lao động.
Lợi nhuận là nguồn cơ bản để doanh nghiệp có điều kiện quan tâm đối với người lao động trong doanh nghiệp ngoài việc trả tiền lương. Lợi nhuận là nguồn để trích lập quỹ khen thưởng, trợ cấp, quỹ phúc lợi giải quyết nhu cầu của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Những quỹ này chỉ có thể có hoặc được bổ sung khi doanh nghiệp làm ăn có lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao thì đời sống của người lao động ít nhiều cũng được nâng lên và từ đó khuyến khích họ hăng say hơn trong công việc, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của họ. Như vậy, lợi nhuận là một nhân tố khuyến khích người lao động.
3.3 Lợi nhuận đối với ngân sách nhà nước.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là cơ sở để doanh nghiệp tính và đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp vào NSNN. Đây là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong các nguồn thu của NSNN, góp phần để NSNN thực hiện vai trò của mình về mặt chính trị, xã hội và đặc biệt là về mặt kinh tế, đó là nhằm khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển và tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Như vậy là lợi nhuận của doanh nghiệp đã góp phần tạo nên một nguồn tích lũy cơ bản rất cần thiết giúp nhà nước thực hiện các chức năng, nhiêm vụ của mình đối với xã hội trong đó có chức năng đầu tư, phát triển nền kinh tế.
Tóm lại, lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, người lao động cũng như toàn xã hội. Chính vì vậy, việc phấn đấu nâng cao lợi nhuận là hết sức cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp.
4. Các chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận.
4.1 Các chỉ tiêu tuyệt đối.
Lợi nhuận trước thuế: Là khoản tiền chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay với lãi vay phải trả trong kì. (Hay nói cách khác lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp được hiểu là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó). Lãi vay là chi phí sử dụng vốn vay mà doanh nghiệp phải trả cho số vốn huy động nhằm mục đích phục vụ nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận sau thuế: là khoản tiền chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế với thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Thuế thu nhập doanh nghiệp được tính bằng lợi nhuận trước thuế nhân với thuế xuất do nhà nước qui định. Thuế suất bao gồm thuế cơ bản và thuế bổ sung. Thuế cơ bản được áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp còn thuế bổ sung chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp có lợi nhuận siêu ngạch.
Nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối thì chưa đánh giá được một cách chính xác trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng chi phí trong doanh nghiệp. Vì vậy để đánh giá đúng đắn và chính xác kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xem xét từ nhiều góc độ khác nhau và bên cạnh chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối thì còn phải xem xét chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận (hoặc doanh lợi).
4.2 Các chỉ tiêu lợi nhuận tương đối.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn.
Doanh lợi vốn là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được với số vốn sử dụng bình quân trong kì (gồm vốn cố định và vốn lưu động). Đây là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh lời của đồng vốn.
Tv
=
p
v
x
100
Trong đó:
Tv: tỷ suất lợi nhuận vốn.
P: lợi nhuận sau thuế hoặc lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
V: tổng nguồn vốn trong kỳ.
Tỷ suất lợi nhuận vốn là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư, không phân biệt nguồn hình thành.
Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó cho phép đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau về qui mô sản xuất.
Ta có thể thay đổi mẫu số của công thức bằng vốn cố định, vốn lưu động của doanh nghiệp để tính các tỷ suất lợi nhuận tương ứng. Tuỳ theo yêu cầu của việc xem xét mà người quản lý doanh nghiệp có thể tính toán nhiều tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất, tỷ suất lợi nhuận vốn cố định, tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động….tương ứng với các chỉ tiêu này, số vốn sử dụng bình quân sẽ là vốn sản xuất bình quân trong kỳ, vốn lưu động bình quân trong kỳ.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
Tv
=
p
vtc
x
100
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế với tổng nguồn vốn chủ sở hữu.
Công thức xác định:
Trong đó
Tv: tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
P : lợi nhuận sau thuế.
Vtc: tổng nguồn vốn chủ sở hữu trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu, được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào một doanh nghiệp. Nó cho biết cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu bỏ vào đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cũng là một trong số các mục tiêu hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.
* Tỷ suất lợi nhuận giá thành.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận thu được so với giá thành của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ.
Tg
=
p
zt
x
100
Công thức xác định:
Trong đó:
Tg: tỷ suất lợi nhuận giá thành.
P : lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế.
Zt: giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành phản ánh hiệu quả kinh tế tính theo lợi nhuận của chi phí sản xuất. Nó cho biết cứ 100 đồng chi phí bỏ vào sản xuất sẽ mang lại bao nhiêu lợi nhuận. Thông qua chỉ tiêu nay, doanh nghiệp biết được ưu nhược điểm trong việc tăng giảm giá thành từ đó đề ra các biện pháp giá thành hợp lý.
* Tỷ suất lợi nhuận doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế so với doanh thu bán hàng thuần của doanh nghiệp.
Tdt
=
p
dt
x
100
Công thức xác định:
Trong đó:
Tdt: tỷ suất lợi nhuận doanh thu.
P : lợi nhuận sau thuế.
DT: doanh thu thuần.
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu thuần có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ suất chung của toàn ngành thì chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn so với các ngành khác.
Ngoài bốn chỉ tiêu trên, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu khác như tỷ suất lợi nhuận giá trị tổng sản lượng, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư….để đánh giá chất lượng từng mặt hoạt động cụ thể hoạc đánh giá chất lượng xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
Mỗi chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận có những ưu nhược điểm khác nhau vì vậy cần sử dụng kết hợp các chỉ tiêu nói trên nhằm giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá một cách chính xác, toàn diện nhằm nâng cao lợi nhuận cũng như tỷ suất lợi nhuận.
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận.
Như trên đã phân tích, lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm là bộ phận chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó, khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp, ta đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm. Sau đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
1. Số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ.
Trong điều kiện các nhân tố khác không biến động hoặc biến động không đáng kể thì số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng lên sẽ trực tiếp làm cho lợi nhuận tiêu thụ tăng lên và ngược lại. Nhân tố này có tác động thuận chiều tới lợi nhuận và được coi là nhân tố chủ quan của doanh nghiệp trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và công tác quản lý tiêu thụ nói riêng. Việc tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ phản ánh kết quả của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm.
Mặt khác, số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ lại phụ thuộc vào các yếu tố như: quy mô sản xuất, khả năng sản xuất, tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Do đó, doanh nghiệp không thể tăng khối lượng sản xuất và tiêu thụ một cách tuỳ tiện, mà phải dựa vào khả năng sản xuất và nhu cầu của thị trường để đưa ra một khối lượng sản phẩm thích hợp; nếu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100759.doc