Chuyên đề Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long

 

Từ sau đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam (1998) đến nay, các NHTM Việt nam đã có được những bước phát triển đáng kể, trở thành kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Các nghiệp vụ ngân hàng cũng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú.

Cùng với sự phát triển của toàn hệ thống, NHNo&PTNT Thăng Long cũng đã tranh thủ mọi cơ hội và bằng nỗ lực chủ quan luôn vươn lên để đủ sức đương đầu với những thách thức mới, nắm bắt những vận hội mới, tạo nên những bước tiến nổi bật. Trong đó, phải kể đến sự phát triển theo hướng tích cực của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng - một hoạt động đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế trong quá trình thực hiện đường lối mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.Trong nền kinh tế thị trường đầy biến động và phức tạp, các giao dịch kinh tế cũng ngày càng đa dạng và phát triển hơn. Với trí óc thông minh của con người, công nghệ ngày càng tinh vi và sự lừa đảo diễn ra ngày càng nhiều. Trước bối cảnh đó, các doanh nghiệp lo lắng sẽ bị đối tác làm ăn lừa lọc gây thiệt hại lớn cho mình nên yêu cầu phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba có đầy đủ tài sản hoặc uy tín trên thị trường đứng ra bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của các bên. Và thông thường người đứng ra bảo lãnh là ngân hàng vì đáp ứng đủ các điều kiện trên.

Tuy nhiên bảo lãnh là một nghiệp vụ hết sức phức tạp, đòi hỏi phải tuân thủ tập quán và thông lệ quốc tế. Ở Việt Nam, do bảo lãnh là một nghiệp vụ còn mới nên sự phát triển và khởi sắc của bảo lãnh trong thời gian qua còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức bách của nền kinh tế. Do vậy, một trong những mục tiêu, định hướng quan trọng của ngành ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT Thăng Long nói riêng trong thời gian tới là phải hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ này, tạo cho bảo lãnh một vị thế vững chắc và phát huy cao độ tính hữu dụng của nó.

Xuất phát từ nhận thức trên, qua một thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Thăng Long, cùng với việc nghiên cứu giữa lý luận và tình hình thực tế, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Thăng Long”

Ngoài lời mở đầu, kết luận, và phụ lục tham khảo, chuyên đề được trình bày theo kết cấu:

 

Chương 1. Cơ sở lý luận về nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM

Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Thăng Long

Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Thăng Long

 

doc64 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Từ sau đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam (1998) đến nay, các NHTM Việt nam đã có được những bước phát triển đáng kể, trở thành kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Các nghiệp vụ ngân hàng cũng ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. Cùng với sự phát triển của toàn hệ thống, NHNo&PTNT Thăng Long cũng đã tranh thủ mọi cơ hội và bằng nỗ lực chủ quan luôn vươn lên để đủ sức đương đầu với những thách thức mới, nắm bắt những vận hội mới, tạo nên những bước tiến nổi bật. Trong đó, phải kể đến sự phát triển theo hướng tích cực của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng - một hoạt động đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế trong quá trình thực hiện đường lối mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.Trong nền kinh tế thị trường đầy biến động và phức tạp, các giao dịch kinh tế cũng ngày càng đa dạng và phát triển hơn. Với trí óc thông minh của con người, công nghệ ngày càng tinh vi và sự lừa đảo diễn ra ngày càng nhiều. Trước bối cảnh đó, các doanh nghiệp lo lắng sẽ bị đối tác làm ăn lừa lọc gây thiệt hại lớn cho mình nên yêu cầu phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba có đầy đủ tài sản hoặc uy tín trên thị trường đứng ra bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của các bên. Và thông thường người đứng ra bảo lãnh là ngân hàng vì đáp ứng đủ các điều kiện trên. Tuy nhiên bảo lãnh là một nghiệp vụ hết sức phức tạp, đòi hỏi phải tuân thủ tập quán và thông lệ quốc tế. Ở Việt Nam, do bảo lãnh là một nghiệp vụ còn mới nên sự phát triển và khởi sắc của bảo lãnh trong thời gian qua còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức bách của nền kinh tế. Do vậy, một trong những mục tiêu, định hướng quan trọng của ngành ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT Thăng Long nói riêng trong thời gian tới là phải hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ này, tạo cho bảo lãnh một vị thế vững chắc và phát huy cao độ tính hữu dụng của nó. Xuất phát từ nhận thức trên, qua một thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Thăng Long, cùng với việc nghiên cứu giữa lý luận và tình hình thực tế, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Thăng Long” Ngoài lời mở đầu, kết luận, và phụ lục tham khảo, chuyên đề được trình bày theo kết cấu: Chương 1. Cơ sở lý luận về nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Thăng Long Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNo&PTNT Thăng Long CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH CHẤT LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH CỦA NHTM Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh Lịch sử hình thành Sự phát sinh nhu cầu bảo lãnh là do sự phát triển của nền kinh tế hay chính sự phát triển của thương mại và tín dụng đã làm nảy sinh những nhu cầu mới. Khi nền kinh tế phát triển, thương mại phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, mối quan hệ kinh tế xã hội không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà có thể vượt ra ngoài lãnh thổ với xu hướng tham gia vào phân công lao động khu vực và thế giới. Sự phát triển của thương mại làm tăng số lượng, giá trị và tốc độ các giao dịch của doanh nghiệp làm các giao dịch vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia. Tín dụng ra đời do nhu cầu chu chuyển vốn trong nền kinh tế giữa những nơi thừa và thiếu tương đối. Thương mại phát triển kéo theo sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực. Để đổi mới sản phẩm, việc đáp ứng thị trường vốn trở nên cực kỳ quan trọng, tín dụng khi đó không chỉ bao gồm quan hệ cung ứng vốn giữa các tổ chức trong một nước mà còn giữa các nước, khu vực, trên nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là thương mại. Điều kiện cơ bản trong tín dụng là người cho vay có thể thu hồi vốn và lãi sau một thời hạn nhất định. Ngược lại, người cấp tín dụng sẽ phải đối mặt với rủi ro tín dụng nếu người vay không hoàn trả đúng yêu cầu. Sự phát triển của thương mại và tín dụng dẫn đến sự thiếu hụt thông tin và dẫn tới rủi ro về đạo đức do bạn hàng không đáp ứng được các hợp đồng đã ký kết đồng thời tăng các rủi ro trong kinh doanh. Như vậy, bản thân nền kinh tế xuất hiện nhu cầu cần có công cụ ngăn ngừa rủi ro từ đối tác, khắc phục tình trạng thiếu hụt thông tin để các bên yên tâm thực hiện giao dịch. Nhu cầu có sự bảo đảm cho các giao dịch giữa các bên ngày càng nhiều đòi hỏi tất yếu phải xuất hiện các hình thức bảo đảm và một trong những hình thức đó là Bảo lãnh. Bảo lãnh là sự đảm bảo của bên thứ ba có đủ tư cách và năng lực thực hiện, dàn xếp quan hệ, tạo sự tín nhiệm cho các đối tác. Qúa trình phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh là một nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, mới chỉ ra đời và phát triển vào đầu thập niên 70 của thế kỷ. Sự phát triển nhanh chóng của các quốc gia sản xuất dầu hỏa ở Trung Đông trong thời gian này cho phép họ mở rộng quan hệ ngoại thương, ký kết những hợp đồng lớn với các đối tác phương Tây cho những dự án lớn như cải tiến cơ sở hạ tầng, các tiện ích công cộng, dự án công nông nghiệp và quốc phòng. Khu vực này là khu vực phát sinh đầu tiên của hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Với sự phát triển của thương mại quốc tế, các giao dịch ngày càng mang tính toàn cầu, tầm cỡ và sự phức tạp của các giao dịch đòi hỏi và thúc đẩy sự phát triển của bảo lãnh ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng được sử dụng mạnh mẽ trên thế giới và đạt được doanh số kỷ lục, được phát triển về hình thức sử dụng. Bảo lãnh không chỉ được thực hiện như một loại hình dịch vụ mà còn là công cụ tài trợ cho các doanh nghiệp. Trong xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa, chu chuyển vốn và giao lưu thương mại quốc tế ngày càng gia tăng với mức độ khổng lồ, nghiệp vụ bảo lãnh rất được các ngân hàng chú trọng hoàn thiện và phát triển. 1.1.2. Khái niệm nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng và đẩy đủ các nghĩa vụ đã thỏa thuận với bên yêu cầu bảo lãnh, được quy định cụ thể tại thư bảo lãnh của ngân hàng Theo điều 2 quy chế bảo lãnh ngân hàng : Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiên không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Như vậy, một giao dịch bảo lãnh Ngân hàng bao giờ cũng liên quan đến 3 bên: Ngân hàng bên bảo lãnh, Bên được bảo lãnh và Bên thụ thưởng bảo lãnh. Quan hệ giữa các bên được quy định bởi các hợp đồng khác nhau, độc lập với nhau. Ngân hàng bên bảo lãnh dùng uy tín của mình để đứng ra cam kết thực hiện nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình. 1.1.3. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng Về thực chất, bảo lãnh là lời hứa thanh toán của ngân hàng với người được yêu cầu bảo lãnh khi được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bảo lãnh là một công cụ bảo đảm, chứ không phải là công cụ thanh toán. Nghiên cứu đặc điểm của bảo lãnh cho ta cơ sở phân biệt giữa bảo lãnh với công cụ thanh toán và bảo đảm khác như tín dụng, bảo hiểm... 1.1.3.1. Bảo lãnh là một mối quan hệ nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau Trong quan hệ bảo lãnh phải có ít nhất 3 bên tham gia là bên bảo lãnh (ngân hàng phát hành bảo lãnh), bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh. Các hợp đồng liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh cũng bao gồm ít nhất 3 loại hợp đồng, đó là: Hợp đồng bảo lãnh – giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh Cam kết bảo lãnh (thư bảo lãnh) – giữa bên bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh Hợp đồng cung cấp hàng hóa, dịch vụ – giữa bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh Một điều đặc biệt trong hoạt động bảo lãnh là các hợp đồng này vừa độc lập vừa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cụ thể: Quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng: Đây là mối quan hệ lam phát sing yêu cầu bảo lãnh, được hình thành trên cơ sở hợp đồng, theo đó bên được bảo lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện đối với bên thụ hưởng bảo lãnh. Tùy theo từng loại hợp đồng mà nghĩa vụ đó có thể là nghĩa vụ tài chính như trả nợ, đóng thuế...hay nghĩa vụ phi tài chính như cung ứng hàng hóa, dịch vụ hoặc bảo hành sản phẩm. Quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh với bên được bảo lãnh Đây là mối quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và khách hàng hưởng tín dụng. Trong quá trình hoạt động, khi khách hàng có nhu cầu được bảo lãnh sẽ viết đơn xin bảo lãnh gửi tới ngân hàng, có thể là ngân hàng truyền thống của mình hoặc ngân hàng do bên đối tác yêu cầu. Quan hệ giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh: Mối quan hệ này thể hiện qua thư bảo lãnh, đó là cam kết của ngân hàng về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bân nhận bảo lãnh. Trường hợp rủi ro xỷ ra thì quan hệ này không còn là sự đảm bảo mà sẽ là hoạt động thanh toán của ngân hàng đối với người thụ hưởng bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh chỉ tồn tại trên cơ sở tất cả các mối quan hệ đó, vì vậy sự tham gia của tất cả các bên là điều tất yếu. 1.1.3.2. Tính độc lập của bảo lãnh Thư bảo lãnh độc lập và tách rời với nội dung của các hợp đồng là cơ sở phát sinh ra thư bảo lãnh, nôi dung thư bảo lãnh không liên quan đến nội dung của hợp đồng giữa bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh. Tính độc lập của bảo lãnh được thể hiện trong trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành bảo lãnh, trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với quan hệ giữa ngân hàng phát hành và bên được bảo lãnh. Việc thanh toán bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện ghi trong thư bảo lãnh của ngân hàng mà không căn cứ vào những quyền kháng nghị phát sinh trong hợp đồng chính. Khi các điều kiện của bảo lãnh được tuân thủ thì ngân hàng không thể viện dẫn bất cứ lý do nào để từ chối hay trì hoãn việc thanh toán. Ngoài ra, tính độc lập của BLNH phụ thuộc vào chính các điều kiện của bảo lãnh. Nếu bảo lãnh quy định việc thanh toán theo văn bản yêu cầu của người thụ hưởng thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán mà không cần thiết phải chứng minh việc vi phạm của người được bảo lãnh. Ngược lại, nếu thư bảo lãnh yêu cầu phải kèm theo chứng từ, người thụ hưởng phải mang đầy đủ bộ chứng từ theo quy định đến ngân hàng phát hành thì mới nhận được khoản thanh toán. Trong cả hai trường hợp trên, ngân hàng không cần căn cứ và xem xét lại nội dung của hợp đồng chính. 1.1.4. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng 1.1.4.1.Chức năng công cụ bảo đảm Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng. Theo chức năng này, người thụ hưởng sẽ được hưởng một khoản bồi thường về tài chính nếu người được bảo lãnh vi phạm cam kết. Mặc dù trên thực tế, khi đòi hỏi có hoạt động bảo lãnh, người nhận bảo lãnh hoàn toàn không mong đợi bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng để được bồi hoàn, họ chỉ coi đó là công cụ có tính chất bảo đảm an toàn cho mình khi có biến cố vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh. Hơn nữa, bảo lãnh được dùng trong những thỏa thuận phi mua bán như hợp đồng thi công, dự thầu công trình...vì vậy bảo lãnh là công cụ đảm bảo chứ không phải công cụ thanh toán. 1.1.4.2. Chức năng công cụ tài trợ Để thi công công trình hay thực hiện hợp đồng mua bán có thể phải dùng vốn lớn trong thời gian dài, người thi công có thể phải yêu cầu từ người chủ công trình một khoản tiền ứng trước. Hoặc trong cuộc đấu thầu, chủ thầu có thể yêu cầu người dự thầu nộp một khoản tiền đặt cọc tham gia đấu thầu. Ngân hàng phát hành bảo lãnh thanh toán như một công cụ tài trợ làm cho chủ thầu được bảo đảm sẽ ứng trước tiền cho nhà thầu và khi dự thầu, nhà thầu thay việc đặt cọc bằng BLNH. Xét về mặt này, BLNH mang chức năng tài trợ, ngân hàng không đứng ra cho vay mà chỉ tài trợ trên danh nghĩa để nhà thầu có thể nhân được vốn ứng trước của chủ thầu, giải quyết khó khăn về vốn. 1.1.4.3. Chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng Bảo lãnh cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng cam kết trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và ngân hàng có quyền đòi lại khoản tiền này. Do đó, ngân hàng luôn phải theo dõi giám sát đôn đốc việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh. Trường hợp ngân hàng bảo lãnh phải thanh toán cho bên nhận bảo lãnh thì bên được bảo lãnh có trách nhiệm hoàn trả khoản tiền đó cho ngân hàng bảo lãnh. Người được bảo lãnh luôn chịu áp lực cho việc bồi hoàn bảo lãnh. Do vậy, bảo lãnh có vai trò đốc thúc người được bảo lãnh thực hiện hoàn tất hợp đồng đã ký kết, điều này làm tăng tính bảo đảm cho người thụ hưởng. Dù vậy khi ký kết hợp đồng và thụ hưởng bảo lãnh, người thụ hưởng vẫn mong muốn người được bảo lãnh thực hiện hợp đồng chứ không mong chờ ở khoản bồi hoàn tài chính từ bảo lãnh. 1.1.4.4. Chức năng công cụ đánh giá Bất kỳ một ngân hàng nào trước khi phát hành thư bảo lãnh đều cần phải kiểm tra một cách toàn diện về bên được bảo lãnh như: khả năng tài chính, uy tín, khả năng thực hiện hợp đồng và đây là một vấn đề mà bên thụ hưởng không có khả năng thực hiện. Vì vậy, điều này sẽ giúp cho bên nhận bảo lãnh có thể đánh giá tốt hơn về đối tác của mình, phục vụ cho mối quan hệ hai bên. 1.2. CÁC HÌNH THỨC BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.2.1. Dựa vào phương thức phát hàng bảo lãnh 1.2.1.1. Bảo lãnh trực tiếp Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người được bảo lãnh, người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Sơ đồ: Ngân hàng thông báo ( Advising Bank) Ngân hàng phát hành (Issuing bank) Người thụ hưởng bảo lãnh (beneficiary) Người được bảo lãnh ( Account Party) (3b) (1) (2) (3a) (3b) Hợp đồng chính ký kết giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng và cam kết bồi hoàn. (3a) Ngân hàng phát hành bảo lãnh trực tiếp cho người thụ hưởng (3b) Ngân hàng phát hành có thể chuyển văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng thông qua ngân hàng thông báo. Ngân hàng thông báo như một đại lý của ngân hàng phát hành, trường hợp người thụ hưởng bảo lãnh ở nước khác thì thư bảo lãnh sẽ được thông báo và gửi qua ngân hàng đại lý tại nước sở tại của ngân hàng phát hành. Ngân hàng này chỉ đóng vai trò thông báo chứ không thanh toán, không chịu trách nhiệm về nội dung thư bảo lãnh và các tranh chấp phát sinh sau này. -Ưu điểm: người xin mở bảo lãnh không phải mất phí hoa hồng cho ngân hàng đại lý nước ngoài. Tuy nhiên, nó mang lại rủi ro cho bên thụ hưởng bảo lãnh bởi khoảng cách xa và thủ tục đòi tiền phức tạp. 1.2.1.2. Bảo lãnh gián tiếp Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu ngân hàng thứ nhất (ngân hàng chỉ thị) đề nghị ngân hàng thứ hai (ngân hàng phát hành) đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Người được bảo lãnh không trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh ngân hàng chỉ thị sẽ chị trách nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng phát hành, thông qua một cam kết gọi là bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Sau khi đã bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh chính, đến lượt mình ngân hàng chỉ thị lại có thể truy đòi từ người được bảo lãnh. Bảo lãnh đối ứng xảy ra khi ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh không có quan hệ đại lý với ngân hàng phục vụ người thụ hưởng bảo lãnh. Do đó ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh phải đề nghị một ngân hàng khác thay mặt mình phát hành bảo lãnh theo mẫu hoặc những điều khoản nhất định. Ngân hàng thứ nhất xem xét phát hành bảo lãnh đối ứng tương tự như xem xét phát hành bảo lãnh trực tiếp, những cam kết của người được bảo lãnh với ngân hàng thứ nhất tương tự như ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh trực tiếp (ngân hàng thứ nhất và thứ hai phải có quan hệ đại lý với nhau). Ngân hàng phát hành ( Second Bank) Ngân hàng thông báo ( Advising Bank) Ngân hàng chỉ thị ( First Bank) Người được bảo lãnh ( Account Party) Người thụ hưởng bảo lãnh ( beneficiary) (1) (3) (4b) (4b) (4a) (2) Người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh ký hợp đồng chính Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng thứ nhất) phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng phát hành (ngân hàng thứ hai) Ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng thứ hai (4a) Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh trực tiếp cho người thụ hưởng (4b) Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng thông qua Ngân hàng thông báo 1.2.1.3. Đồng bảo lãnh Theo quy định của NHNN, tổng số dư bảo lãnh của các TCTD cho một khách hàng không được vượt quá 15%vốn tự có của TCTD, do đó với những dự án có giá trị lớn, để chấp hành quy định của NHNN và giảm thiểu rủi ro thì các ngân hàng thực hiện đồng bảo lãnh. Đồng bảo lãnh là loại bảo lãnh trong đó một ngân hàng đóng vai trò đầu mối phát hàng bảo lãnh nhưng có sự tham gia của các ngân hàng đồng minh khác. Nếu khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, ngân hàng đầu mối có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho khách hàng. Tiếp đó, các ngân hàng đồng minh có trách nhiệm hoàn lại số tiền tương ứng theo tỷ lệ tham gia đồng bảo lãnh mà các bên đã thỏa thuận trong bảo lãnh đối ứng do ngân hàng này phát hành. 1.2.2. Dựa vào mục đích sử dụng của bảo lãnh 1.2.2.1. Bảo lãnh vay vốn (bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay) Bảo lãnh vay vốn là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng (người đi vay) không trả được, đồng thời bên vay phải nhận nợ với bên bảo lãnh về số tiền trả thay.Việc bảo lãnh nói chung khá phức tạp, số tiền bảo lãnh thường lớn do vậy rủi ro của ngân hàng bảo lãnh rất cao. Ngân hàng phải xem xét tính khả thi của dự nhàng là người có trách nhiệm trả tiền khi người vay không có khả năng hòan trả các khoản nợ đến hạn. Với loại bảo lãnh này, giá trị bảo lãnh thường là 100% giá trị hợp đồng gốc.Theo thỏa thuận, có thể chỉ gồm phần gốc hoặc có tính cả lãi và chi phí, phải quy định rõ lãi và chi phí đã thỏa thuận chưa hay phải còn tính tiếp. Thời hạn hiệu lực là thời hạn hoàn trả tín dụng đã thỏa thuận. 1.2.2.2. Bảo lãnh dự thầu Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với chủ thầu về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm quy chế dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ số tiền phạt cho bên chủ thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm bù đắp thiệt hại về thời gian và chi phí cho người tổ chức đấu thầu do những vi phạm của bên đối tác liên quan (người tham gia dự thầu) như: rút đơn dự thầu, không ký tiếp hợp đồng sau khi trúng thầu...Việc phát hành bảo lãnh dự thầu còn bảo đảm cho chủ thầu về khả năng tài chính của người thầu. Trường hợp người dự thầu trúng thầu và sau khi đã ký kết hợp đồng với chủ thầu thì bảo lãnh dự thầu sẽ hết hiệu lực và chuyển sang bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Trị giá của bảo lãnh : thông thường có giá trị từ 1-5% giá trị hợp đồng đấu thầu. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh chỉ chấm dứt khi bên được bảo lãnh (người tham gia dự thầu) không trúng thầu hoặc sau khi ký kết hợp đồng nếu bên được bảo lãnh trúng thầu. 1.2.2.3. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba. Mục đích: trong trường hợp người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, một mặt bù đắp tổn thất cho người thụ hưởng mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng. Tùy theo loại hình và quy mô hợp đồng, giá trị bảo lãnh thực hiện hợp đồng từ 5%-15% tổng giá trị hợp đồng, số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng. Thời hạn của bảo lãnh phục thuộc vào thời hạn thực hiện hợp đồng và có thể được kéo dài đến khi hoàn thành hợp đồng để đảm bảo cho việc giao hàng, lắp đặt, bảo hành... 1.2.2.4. Bảo lãnh thanh toán Bảo lãnh thanh toán là cam kết của ngân hàng về việc thanh toán theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ. Mục đích: cung cấp sự đảm bảo cho người thụ hưởng có thể nhận được khoản thanh toán một cách thuận lợi, đầy đủ, đúng hạn về các sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ đã cung ứng cho người được bảo lãnh. Số tiền và thời hạn bảo lãnh phù hợp với số tiền và thời hạn thanh toán trong hợp đồng cơ sở, số tiền bảo lãnh thường bằng 100% giá trị hợp đồng. 1.2.2.5. Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm theo hợp đồng Là loại bảo lãnh mà ngân hàng cam kết với chủ thầu hoặc nhà nhập khẩu trong trường hợp nhà thầu hoặc người xuất khẩu vi phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm mà không bồi thường hoặc bồi thường không đủ thì ngân hàng bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trả thay trong phạm vi số tiền và thời hạn bảo lãnh. Mục đích: bảo đảm chất lượng sản phẩm trong suốt thời hạn bảo hành của sản phẩm. Bảo lãnh bảo hành có thời hạn từ lúc bắt đầu lắp ráp, sử dụng thiết bị cho đến hết thời hạn bảo hành của thiết bị. Trong suốt thời gian bảo hành nếu có bất cứ sự cố trong phạm vi được bảo hành xảy ra đối với sản phẩm và người được bảo lãnh không có biện pháp khắc phục hữu hiệu thì người thụ hưởng có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán bảo lãnh như một khoản bồi thường thiệt hại. Số tiền bảo lãnh bảo hành chiếm khoảng 5%-10% giá trị sản phẩm, công trình. 1.2.2.6. Các loại bảo lãnh tài chính khác Thư tín dụng dự phòng: thường được sử dụng với mục đích tương tự như bảo lãnh thanh toán nhằm đảm bảo an toàn thanh toán trong trường hợp bên được bảo lãnh có thể không thực hiện hợp đồng cam kết. Loại thư tín dụng này được sử dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế, người nhập khẩu thường phải cung cấp tín dụng cho người xuất khẩu dưới dạng tiền đặt cọc, ký quỹ, ứng trước, mở L/C...Các khoản này chiếm tới 10-15% tổng giá trị đơn đặt hàng, vì cậy cần có bảo lãnh bảo đảm trả lại số tiền đó nếu bên xuất khẩu không thực hiện đúng nghĩa vụ giao hàng. Bảo lãnh vận đơn: nhằm bảo vệ người có quyền lợi chính đáng trước sự lợi dụng vận đơn. Số tiền bảo lãnh từ 100%-150% giá trị hàng hóa để có thể bù đắp những thiệt hại có thể phát sinh, thường cho tới khi chủ hàng có hàng mới. Có hai loại bảo lãnh vận đơn: Bảo lãnh vận đơn người xuất khẩu đề nghị phát hành: ngân hàng cam kết với người nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3760.doc
Tài liệu liên quan