Nhân loại đã bước sang một thế kỷ mới, thế kỷ mà tri thức và tiến bộ khoa học, kỹ thuật được coi là nền tảng của sự phát triển kinh tế, xã hội, thế kỷ mà nền giáo dục phải đào tạo ra được những con người năng động, sáng tạo, có trí tuệ và giàu tính nhân văn, nền kinh tế phải là động lực thúc đẩy quá trình đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh quá trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá khu vực kinh tế, tài chính thế giới đã và đang được diễn ra một cách mạnh mẽ, sâu sắc, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Điều này buộc các quốc gia trong đó có Việt Nam phải cơ cấu lại nền kinh tế trên cơ sở phát huy những thế mạnh, lợi thế so sánh của đất nước đáp ứng tối đa nhu cầu của thị trường trong nước và nước ngoài.
Với chức năng chủ yếu là huy động vốn và cung ứng vốn phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, hoạt động của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bởi vì hầu hết các nhu cầu giao lưu vốn trong nền kinh tế đều được thực hện chủ yếu thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại. Điều đó đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải có những chuyển biến căn bản về nhận thức, phải thực sự được kiện toàn, đổi mới để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế.
Bảo lãnh ngân hàng là một trong những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại đã ra đời từ khá lâu và đã được các ngân hàng thương mại Việt Nam ứng dụng và phát triển trong những năm qua. Việc áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại đã giúp cho các Ngân hàng mở rộng hoạt động của mình, tăng cường mối quan hệ với khách hàng. Tuy nhiên, cho đến nay các loại hình bảo lãnh vẫn còn đơn điệu, rủi ro từ bảo lãnh vẫn còn ở mức độ khá lớn và mức độ phát triển của nó chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc phát triển hoạt động bảo lãnh trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh nói riêng là một đòi hỏi hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ thực trạng kinh tế Việt Nam, thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong hội nhập, phát triển kinh tế và qua quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh em chọn đề tài “Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu
ã Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại
ã Dựa trên cơ sở lý luận về hoạt động bảo lãnh ngân hàng của các ngân hàng thương mại, đề tài tập trung phân tích thực trạng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng công thương Đông Anh trong thời gian vừa qua để có được những đánh giá chính xác về hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh.
ã Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá về lý luận cũng như thực trạng hoạt động bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng công thương Đông Anh, đề tài sẽ đề ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh trong thời gian tới.
Chuyên đề sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, luận giải. để làm sáng tỏ lý luận về bảo lãnh ngân hàng và thực trạng hoạt động bảo lãnh qua đó đề ra giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng công thương Đông Anh.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh
84 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1133 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu
Nhân loại đã bước sang một thế kỷ mới, thế kỷ mà tri thức và tiến bộ khoa học, kỹ thuật được coi là nền tảng của sự phát triển kinh tế, xã hội, thế kỷ mà nền giáo dục phải đào tạo ra được những con người năng động, sáng tạo, có trí tuệ và giàu tính nhân văn, nền kinh tế phải là động lực thúc đẩy quá trình đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh quá trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá khu vực kinh tế, tài chính thế giới đã và đang được diễn ra một cách mạnh mẽ, sâu sắc, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Điều này buộc các quốc gia trong đó có Việt Nam phải cơ cấu lại nền kinh tế trên cơ sở phát huy những thế mạnh, lợi thế so sánh của đất nước đáp ứng tối đa nhu cầu của thị trường trong nước và nước ngoài.
Với chức năng chủ yếu là huy động vốn và cung ứng vốn phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, hoạt động của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bởi vì hầu hết các nhu cầu giao lưu vốn trong nền kinh tế đều được thực hện chủ yếu thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại. Điều đó đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải có những chuyển biến căn bản về nhận thức, phải thực sự được kiện toàn, đổi mới để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế.
Bảo lãnh ngân hàng là một trong những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại đã ra đời từ khá lâu và đã được các ngân hàng thương mại Việt Nam ứng dụng và phát triển trong những năm qua. Việc áp dụng nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại đã giúp cho các Ngân hàng mở rộng hoạt động của mình, tăng cường mối quan hệ với khách hàng. Tuy nhiên, cho đến nay các loại hình bảo lãnh vẫn còn đơn điệu, rủi ro từ bảo lãnh vẫn còn ở mức độ khá lớn và mức độ phát triển của nó chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc phát triển hoạt động bảo lãnh trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh nói riêng là một đòi hỏi hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ thực trạng kinh tế Việt Nam, thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong hội nhập, phát triển kinh tế và qua quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh em chọn đề tài “Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động bảo lãnh tại các ngân hàng thương mại
Dựa trên cơ sở lý luận về hoạt động bảo lãnh ngân hàng của các ngân hàng thương mại, đề tài tập trung phân tích thực trạng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng công thương Đông Anh trong thời gian vừa qua để có được những đánh giá chính xác về hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh.
Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá về lý luận cũng như thực trạng hoạt động bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng công thương Đông Anh, đề tài sẽ đề ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh trong thời gian tới.
Chuyên đề sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, luận giải... để làm sáng tỏ lý luận về bảo lãnh ngân hàng và thực trạng hoạt động bảo lãnh qua đó đề ra giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng công thương Đông Anh.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đông Anh
Chương 1:
Những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại
1.1) Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển nền kinh tế và hệ thống tài chính, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh tế hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với những nghiệp vụ chủ yếu là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay, làm phương tiện thanh toán và cung ứng các loại hình dịch vụ cho khách hàng.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế, trong quá trình hoạt động đó ngân hàng thực hiện vai trò của mình là tham gia điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế bằng cách đảm bảo hoạt động ngân hàng và nền kinh tế được bình thường. Các cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Bằng các chính sách tín dụng, ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực sản xuất, lưu thông và dịch vụ. Như vậy, việc sử dụng vốn vay ngân hàng vừa giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn bị thiếu hụt trong nền kinh tế, vừa buộc doanh nghiệp phải có trách nhiệm về việc phải làm thế nào để sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn ngân hàng cung ứng từ đó giúp cho doanh nghiệp có những lựa chọn, những quyết sách đúng đắn nhằm sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng một cách hợp lý và có lợi nhất.
Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng thương mại còn được thể hiện qua việc tiếp nhận, thu hút một khối lượng tiền mặt từ nền kinh tế vào ngân hàng thương mại đồng thời ngân hàng thương mại cung ứng tiền mặt theo yêu cầu, khi các doanh nghiệp rút tiền của mình để trả lương cho công nhân viên, trả tiền mua nguyên, vật liệu… cá nhân rút tiền gửi để chi dùng cho những nhu cầu của mình như mua sắm hàng hoá, đồ dùng, mua sắm tài sản, trả nợ…
1.1.2. Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động vốn. Huy động vốn là hoạt động đóng vai trò quan trọng tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại, đảm bảo cho nhu cầu kinh doanh của ngân hàng đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Một ngân hàng thương mại có thể có được nhiều nguồn vốn khác nhau thông qua việc huy động vốn từ các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội, huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và trong những trường hợp nhất định ngân hàng có thể bổ sung vốn bằng cách đi vay các ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng, vay ngân hàng Trung ương và vay trên thị trường vốn với việc phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu…
1.1.2.2. Sử dụng vốn
Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì phải sử dụng hiệu quả nguồn vốn mà mình huy động được để cho vay, đầu tư kinh doanh khác, mua chứng khoán… Ngân hàng cho vay đối với tất cả những ai có nhu cầu và đáp ứng đủ yêu cầu của ngân hàng đề ra bao gồm các cá nhân, các đơn vị kinh doanh, chính phủ… nhằm mục đích sử dụng hiệu quả vốn của ngân hàng phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và nhờ đó ngân hàng có thể thu hồi được vốn.
1.1.2.3. Cung ứng các loại hình dịch vụ
Ngân hàng là tổ chức cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Các dịch vụ của ngân hàng bao gồm:
Kinh doanh ngoại tệ là một trong những dịch vụ đầu tiên được ngân hàng thực hiện, ngân hàng tiến hành mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. ở Việt Nam song hành nhiều loại phương tiện thanh toán khác nhau, do đó ngân hàng tiến hành mua ngoại tệ vào để dự trữ ngoại tệ và bán ngoại tệ ra trong điều kiện lưu thông tiền tệ quốc gia.
Thanh toán hộ khách hàng: Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng.
Bảo lãnh: Do ngân hàng là một tổ chức nắm giữ một khối lượng tiền lớn trong nền kinh tế và do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác…
Bảo quản tài sản và các giấy tờ có giá: Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện.
Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ uỷ thác cho khách hàng trong các giao dịch trên thị trường chứng khoán như mua hộ, bán hộ chứng khoán…, thực hiện tư vấn cho khách hàng về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, sát nhập doanh nghiệp…, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm…
1.2) Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng
1.2.1. Sự ra đời và phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Con người sống, lao động và học tập trong một cộng đồng xã hội loài người mà trong đó các thành viên luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau làm phát sinh những mối quan hệ, những giao dịch, những trao đổi với nhau. Nền kinh tế với những thăng trầm, những biến động khôn lường làm cho các giao dịch kinh tế cũng luôn tiềm ẩn những rủi ro làm ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ, giao dịch này. Những tranh chấp sẽ là không tránh khỏi và vấn đề đặt ra là làm thế nào để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro cũng như những tranh chấp phát sinh giữa các bên, muốn vậy phải có một tổ chức có đủ uy tín, đủ năng lực đứng ra đảm bảo cho một trong hai bên trong việc thực hiện các nghĩa vụ như đã cam kết từ đó làm phát sinh nhu cầu bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng ra đời vào giữa những năm 60 của thế kỷ XX, lần đầu tiên ở Mỹ, tuy nhiên nguồn gốc phát sinh nhu cầu bảo lãnh ngân hàng lại bắt đầu từ khu vực Trung Đông. Vào đầu những năm 70, các nước ở khu vực này giàu lên nhanh chóng làm phát sinh các nhu cầu xây dựng các công trình công cộng, cơ sở hạ tầng kinh tế, củng cố an ninh, quốc phòng... do đó các quốc gia Trung Đông đã ký kết các hợp đồng kinh tế với các nước phương Tây để triển khai và xây dựng các công trình đó. Nhưng do các hợp đồng kinh tế này có giá trị rất lớn, các quốc gia Trung Đông đòi hỏi phải có sự đảm bảo vững chắc của các nước phương Tây trong việc thực hiện các hợp đồng thông qua hình thức bảo lãnh của ngân hàng. Và đến cuối những năm 70, ở các nước, bảo lãnh do các ngân hàng thực hiện đã tương đối phát triển, đến nay, bảo lãnh ngân hàng đã ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc thúc đẩy các quan hệ trao đổi trong các lĩnh vực tài chính, thương mại của nền kinh tế, góp phần làm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bảo lãnh ngân hàng trở thành một nghiệp vụ quốc tế được sử dụng chủ yếu tại hầu hết các ngân hàng trên thế giới và ta có thể chắc chắn rằng những hợp đồng lớn đặc biệt là những hợp đồng có sự tham gia của đối tác nước ngoài thì không thể thiếu sự có mặt của bảo lãnh ngân hàng. Hiện nay, trên thế giới bảo lãnh ngân hàng được thực hiện theo qui ước thống nhất do phòng thương mại quốc tế ICC ban hành nhằm quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong bảo lãnh về các lĩnh vực thương mại quốc tế và tài trợ xuất nhập khẩu.
Bảo lãnh ngân hàng có mặt ở Việt Nam vào khoảng cuối thập kỷ 80, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng trở nên phong phú, các doanh nghiệp nhận thấy cần phải có một cơ quan chuyên môn có đủ năng lực, thẩm quyền đứng ra đảm bảo quyền lợi của các bên trong các quan hệ thương mại và từ đó giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Hiện nay, các quy định của bộ luật dân sự, các quy định của luật các tổ chức tín dụng, quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ban hành ngày 25/8/2000 và các quy chế sửa đổi bổ sung khác của thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam là những văn bản pháp luật quy định có hệ thống về bảo lãnh do ngân hàng thực hiện.
So với những ngày đầu thực hiện bảo lãnh ngân hàng thì đến nay quy mô và doanh thu phí bảo lãnh của ngân hàng ngày càng gia tăng. Sự phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng đã đem lại cho các ngân hàng những lợi ích đáng kể từ việc nâng cao uy tín, vị thế đến việc tăng doanh thu cho ngân hàng đặc biệt là tạo điều kiện cho ngân hàng trong việc đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng…
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
1.2.2.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Con người không thể lúc nào cũng dự đoán trước được những biến động có thể xảy ra trong tương lai cũng như không thể lúc nào cũng đặt lòng tin tuyệt đối vào đối tác của mình trong các quan hệ làm ăn, buôn bán bởi vì rủi ro thì khó lường mà lòng người thì khó đoán chính vì vậy nhằm tránh rủi ro không mong đợi có thể xảy ra phải có một sự đảm bảo vững chắc của một bên thứ ba gọi là bên bảo lãnh trong việc đảm bảo thực hiện một nghĩa vụ nào đó được quy định từ trước.
Theo quan niệm chung thì bảo lãnh là sự cam kết của bên bảo lãnh thay cho bên được bảo lãnh nếu như bên được bảo lãnh vi phạm các quy định trong hợp đồng bảo lãnh đối với bên thụ hưởng bảo lãnh.
Quyết định số 283/2000/QĐ- NHNN quy định: Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay
Bên bảo lãnh là bên phát hành bảo lãnh, có trách nhiệm thanh toán thay cho bên được bảo lãnh khi bên này không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng bảo lãnh. Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng gồm: ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, Ngân hàng hợp tác, các loại hình Ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng phi Ngân hàng thành lập và hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng.
Bên được bảo lãnh: khách hàng được ngân hàng bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài, có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ của mình như trong hợp đồng cơ sở đã ký kết với bên thụ hưởng bảo lãnh, nếu như vì một lý do nào đó họ không hoàn thành được nghĩa vụ của mình thì ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho họ (ngân hàng đứng ra trả thay) và bên được bảo lãnh phải có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ngân hàng số tiền mà ngân hàng đã trả thay. Ngân hàng không được bảo lãnh đối với những người sau:
Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của ngân hàng
Cán bộ, nhân viên của chính ngân hàng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định bảo lãnh
Đối với bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của ngân hàng, việc quyết định bảo lãnh do ngân hàng xem xét.
Bên nhận bảo lãnh (bên thụ hưởng bảo lãnh) là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, được thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của ngân hàng và có quyền yêu cầu ngân hàng đứng ra thanh toán khi chứng minh được bên được bảo lãnh đã không thực hiện hợp đồng như đã cam kết.
Như vậy bảo lãnh ngân hàng là một dịch vụ sử dụng uy tín và tài chính của ngân hàng để bảo đảm cho một hoạt động nào đó của khách hàng trong trường hợp khách hàng chưa được đối tác tin tưởng. Việc bảo lãnh của ngân hàng cho phép đối tác của khách hàng có được một chứng từ đảm bảo thanh toán và khách hàng được ngân hàng bảo lãnh phải trả chi phí cho ngân hàng theo những cam kết đã được các bên thoả thuận từ trước.
1.2.2.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
* Là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để được đối tác tin tưởng. Bảo lãnh được ghi vào tài sản ngoại bảng, đó là phần giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng của mình. Phần giá trị mà ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả khi khách hàng của mình vi phạm hợp đồng được ghi vào tài sản nội bảng ở mục cho vay bắt buộc tính vào nợ quá hạn.
*Là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau: Trong một nghiệp vụ bảo lãnh thường có sự kết hợp giữa ba hợp đồng độc lập:
Một là hợp đồng cơ sở được ký kết giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh
Hai là hợp đồng bảo lãnh giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh
Ba là cam kết bảo lãnh của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh
Đồng thời giữa các chủ thể tham gia bảo lãnh ngân hàng cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Ngân hàng
Sơ đồ mối quan hệ giữa các bên trong bảo lãnh
Hợp đồng BL Cam kết bảo lãnh
Người thụ hưởng bảo lãnh
Người yêu cầu bảo lãnh
Hợp đồng cơ sở
* Bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập
Ngày nay, tính độc lập cần thiết trong bảo lãnh ngân hàng được nhấn mạnh bởi việc sử dụng điều khoản “trả theo yêu cầu đầu tiên”. Trong khuôn khổ các điều kiện của bảo lãnh, ngân hàng phải thanh toán dựa trên yêu cầu đầu tiên với điều kiện là các điều khoản đặt ra trong bảo lãnh phải được thực hiện. Nghĩa vụ của ngân hàng là nghĩa vụ tài chính có nghĩa là trả một số tiền được bảo lãnh dựa trên yêu cầu đòi tiền phù hợp với các điều khoản bảo lãnh Ngân hàng không có chức năng phân xử hoặc quyết định liệu yêu cầu đòi tiền đó có đúng hay không. Bảo lãnh ngân hàng phải đề cập đến một cách đầy đủ nghĩa vụ của ngân hàng và nghĩa vụ này không phụ thuộc vào món nợ gốc hay mối quan hệ hợp đồng liên quan giữa các bên.
1.2.3. Phân loại bảo lãnh ngân hàng
1.2.3.1. Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh
* Bảo lãnh đồng nghĩa vụ: Là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là có cùng nghĩa vụ, nghĩa vụ của người được bảo lãnh là nghĩa vụ đầu tiên, nghĩa vụ của ngân hàng là nghĩa vụ bổ sung được thực hiện khi có chứng cứ xác nhận rằng nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm. Ngân hàng sẽ phải tiến hành thanh toán cho bên thụ hưởng bảo lãnh nếu như bên được bảo lãnh vi phạm các quy định đã được ký kết trong hợp đồng cơ sở với bên thụ hưởng bảo lãnh bất kể vì lý do gì.
* Bảo lãnh độc lập là loại bảo lãnh hiện đại, được sử dụng phổ biến hiện nay trong quan hệ thương mại quốc tế, trong đó nghĩa vụ của ngân hàng và người được bảo lãnh hoàn toàn tách rời nhau, ngân hàng chỉ tiến hành thanh toán cho người nhận bảo lãnh khi những điều kiện thanh toán được thoả mãn
1.2.3.2. Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh
* Bảo lãnh trực tiếp: Là một loại bảo lãnh mà trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh mà không thông qua trung gian nào, người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Trong trường hợp người thụ hưởng bảo lãnh là người nước ngoài thì ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh sẽ thông qua một ngân hàng đại lý của mình ở nước người thụ hưởng yêu cầu ngân hàng này chuyển thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Với bảo lãnh này ngân hàng không phải mất thêm chi phí cho ngân hàng nước ngoài nhưng lại gây khó khăn cho người hưởng lợi do sự xa xôi về địa lý thêm vào đó loại bảo lãnh này lại do luật pháp của nước người được bảo lãnh chi phối nên việc đòi tiền cũng khá phức tạp nếu như người thụ hưởng thiếu hiểu biết về luật pháp nước người được bảo lãnh.
Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp
Ngân hàng thông báo
Ngân hàng phát hành
Phát hành BL
Yêu cầu NH BL Thông báo
phát hành BL BL
Bên được bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh
Ký hợp đồng
*Bảo lãnh gián tiếp: Là loại bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh (Ngân hàng chỉ thị) dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng (bảo lãnh đối ứng: là bảo lãnh do một ngân hàng phát hành cho một ngân hàng khác về việc đề nghị ngân hàng này thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh). Người được bảo lãnh không phải bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính ngân hàng chỉ thị chịu trách nhiệm bồi hoàn.
Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
Ngân hàng phát hành
Ngân hàng chỉ thị
Bên được bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh
Ngân hàng thông báo
Phát hành BL
BL đối ứng
BL Thông báo
BL
Yêu cầu BL
Ký hợp đồng
Bảo lãnh gián tiếp thường được sử dụng trong trường hợp người thụ hưởng và ngân hàng phát hành ở trong cùng một nước điều đó sẽ tạo thuận lợi cho người thụ hưởng trong việc đòi tiền còn nếu trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài và ngân hàng phát hành, ngân hàng chỉ thị ở trong cùng môt nước thì ngân hàng trong nước sẽ uỷ nhiệm cho một ngân hàng đại lý ở nước ngoài mở tiếp thư bảo lãnh. Loại bảo lãnh gián tiếp lại do luật pháp của nước ngân hàng phát hành chi phối nên nếu ngân hàng phát hành ở cùng một nước với bên nhận bảo lãnh thì sẽ gây khó khăn cho ngân hàng chỉ thị và bên được bảo lãnh nếu như họ chưa có những hiểu biết đầy đủ về luật pháp của nước ngân hàng phát hành.
* Đồng bảo lãnh là việc nhiều ngân hàng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của khách hàng thông qua một ngân hàng làm đầu mối. Các ngân hàng tham gia đồng bảo lãnh cùng chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà ngân hàng đầu mối đã phát hành cho bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho khách hàng. Các ngân hàng tham gia đồng bảo lãnh có trách nhiệm hoàn lại cho ngân hàng đầu mối số tiền tương ứng theo tỷ lệ tham gia đồng bảo lãnh mà các bên đã thoả thuận. Đối với những hợp đồng có giá trị lớn, các ngân hàng muốn bảo lãnh cho khách hàng thì buộc phải tham gia vào đồng bảo lãnh vì tổng số dư bảo lãnh của ngân hàng cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng.
* Tái bảo lãnh là bên bảo lãnh đem hợp đồng bảo lãnh cho một tổ chức khác nhận tái bảo lãnh hợp đồng này trên cơ sở phân chia phí bảo lãnh và trách nhiệm trong bảo lãnh
* Xác nhận bảo lãnh: Là bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng (bên xác nhận bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh) đối với khách hàng. Trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã cam kết với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác nhận bảo lãnh.
1.2.3.3. Căn cứ vào mục đích của bảo lãnh
Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Trong giai đoạn hiện nay, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như đấu thầu cung cấp thiết bị, đấu thầu xây dựng… thông qua đó chủ công trình sẽ tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng lực và hạn chế những rủi ro có thể xảy ra.
Giá trị khoản bảo lãnh thường từ 1-5% giá thầu
Mục đích của bảo lãnh dự thầu là để hứa thanh toán trong trường hợp người dự thầu đã thay đổi các điều kiện thầu hoặc đã rút thầu trong thời gian thầu hoặc không ký hợp đồng mặc dù trúng thầu.
Thời gian của bảo lãnh tương đương với thời gian trúng thầu hoặc bảo lãnh sẽ hết hạn cho đến khi hợp đồng được ký kết.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Số tiền bảo lãnh thường là 5-10% số tiền của hợp đồng
Thời hạn có hiệu lực của bảo lãnh: Bảo lãnh có hiệu lực cho đến khi hoàn thành việc thực hiện hợp đồng như cung cấp xong hàng hoá, thiết bị… Hợp đồng nào đầu tư máy móc thiết bị và có dùng nguyên liệu chạy thử máy, thời hạn này còn bao gồm cả thời hạn bảo hành để chạy một máy móc hoặc một hệ thống máy chính xác.
Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước: nhiều người cung cấp yêu cầu khách hàng (người mua hàng hoá dịch vụ) phải đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng cung cấp nhằm vừa giúp bên cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã đặt. Tuy nhiên, người cung cấp có thể không cung cấp hàng đồng thời lại không trả tiền đặt cọc, do đó bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo lãnh của ngân hàng về việc sẽ trả tiền ứng trước.
Vậy bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng sẽ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 571.doc