Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào. Nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Việc tham gia tích cực vào các diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới như APEC, ASEM, AFTA và gần đây là WTO đã tạo điều kiện để mọi ngành nghề, mọi khu vực kinh tế ở nước ta mở rộng hợp tác và tăng cường quan hệ với các đối tác nước ngoài. Tham gia sân chơi chung, Việt Nam có nhiều cơ hội để học tập tiếp thu kinh nghiệm quản lý, vận hành nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới để chọn lọc và tìm ra hướng phát triển thích hợp nhất. Tuy nhiên bên cạnh đó là những khó khăn không nhỏ mà các thành phần kinh tế nước ta phải tìm hướng giải quyết: chất lượng sản phẩm, dịch vụ, nhân lực, công nghệ.
Được coi là lĩnh vực nhạy cảm, là trung gian tài chính cực kỳ quan trọng, ngành ngân hàng đã có những bước đi thận trọng, đảm bảo nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành của ngành đồng thời giữ được vai trò điều tiết, ổn định cho nền kinh tế. Trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, NHNo & PTNT có nhiều lợi thế trong việc phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ hướng đến trở thành một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam trong việc cấp vốn trợ giúp phát triển cho các thành phần kinh tế.
Phát huy lợi thế của ngân hàng thương mại hoạt động lâu năm, có mạng lưới giao dịch rộng khắp, trong những năm qua, NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì đã đạt được nhiều thành tích trong việc tài trợ vốn cho các thành phần kinh tế trên địa bàn. Ngoài việc tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong cho vay các nông hộ phát triển nông nghiệp thì hiện nay tại chi nhánh, mở rộng cho vay DNNVV đang là hướng đi tích cực. Kết quả bước đầu thể hiện ở tỷ trọng đóng góp của hoạt động này trong tổng thu nhập của ngân hàng tăng dần qua mỗi năm, bên cạnh đó ngày càng có nhiều DNNVV thiết lập và duy trì quan hệ tín dụng với chi nhánh.
Trong quá trình thực tập tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì, được tìm hiểu một số quy trình, thủ tục và các kết quả cho vay DNNVV em đã nhận thấy tiềm năng phát triển của hoạt động cho vay với loại hình doanh nghiệp này. Chính vì thế trong chuyên đề tốt nghiệp dưới đây, em đã chọn đề tài “Giải pháp phát triển cho vay DNNVV tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì” với mong muốn có được những nhận thức sâu sắc hơn về hoạt động cho vay DNNVV tại chi nhánh cũng như những tác động của nó đến sự phát triển kinh tế chung của thành phố.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì
Chương 3: Một số giải pháp phát triển cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì
82 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1014 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Giải pháp phát triển cho vay doang nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào. Nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Việc tham gia tích cực vào các diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới như APEC, ASEM, AFTA và gần đây là WTO đã tạo điều kiện để mọi ngành nghề, mọi khu vực kinh tế ở nước ta mở rộng hợp tác và tăng cường quan hệ với các đối tác nước ngoài. Tham gia sân chơi chung, Việt Nam có nhiều cơ hội để học tập tiếp thu kinh nghiệm quản lý, vận hành nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới để chọn lọc và tìm ra hướng phát triển thích hợp nhất. Tuy nhiên bên cạnh đó là những khó khăn không nhỏ mà các thành phần kinh tế nước ta phải tìm hướng giải quyết: chất lượng sản phẩm, dịch vụ, nhân lực, công nghệ.
Được coi là lĩnh vực nhạy cảm, là trung gian tài chính cực kỳ quan trọng, ngành ngân hàng đã có những bước đi thận trọng, đảm bảo nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành của ngành đồng thời giữ được vai trò điều tiết, ổn định cho nền kinh tế. Trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, NHNo & PTNT có nhiều lợi thế trong việc phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ hướng đến trở thành một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam trong việc cấp vốn trợ giúp phát triển cho các thành phần kinh tế.
Phát huy lợi thế của ngân hàng thương mại hoạt động lâu năm, có mạng lưới giao dịch rộng khắp, trong những năm qua, NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì đã đạt được nhiều thành tích trong việc tài trợ vốn cho các thành phần kinh tế trên địa bàn. Ngoài việc tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong cho vay các nông hộ phát triển nông nghiệp thì hiện nay tại chi nhánh, mở rộng cho vay DNNVV đang là hướng đi tích cực. Kết quả bước đầu thể hiện ở tỷ trọng đóng góp của hoạt động này trong tổng thu nhập của ngân hàng tăng dần qua mỗi năm, bên cạnh đó ngày càng có nhiều DNNVV thiết lập và duy trì quan hệ tín dụng với chi nhánh.
Trong quá trình thực tập tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì, được tìm hiểu một số quy trình, thủ tục và các kết quả cho vay DNNVV em đã nhận thấy tiềm năng phát triển của hoạt động cho vay với loại hình doanh nghiệp này. Chính vì thế trong chuyên đề tốt nghiệp dưới đây, em đã chọn đề tài “Giải pháp phát triển cho vay DNNVV tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì” với mong muốn có được những nhận thức sâu sắc hơn về hoạt động cho vay DNNVV tại chi nhánh cũng như những tác động của nó đến sự phát triển kinh tế chung của thành phố.
Nội dung chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chương 2: Thực trạng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì
Chương 3: Một số giải pháp phát triển cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHNo & PTNT VN chi nhánh Thanh Trì
CHƯƠNG 1: NHữNG VấN Đề CƠ BảN Về phát triển CHO VAY DOANH NGHIệP NHỏ Và VừA tại nhtm
Mục tiêu của chương: Chương 1 giới thiệu khái quát, đặc điểm, vai trò của DNNVV. Bên cạnh đó, chương này cũng đề cập đến vấn đề cho vay, những nhân tố ảnh hưởng đến việc cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp, không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật.
Theo hướng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Việc đưa ra khái niệm niệm về ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết. Theo Pháp lệnh Ngân hàng, HTX Tín dụng và Công ty Tài chính ban hành ngày 24/05/1990: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.”. Như vậy, ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác.
1.1.2. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính của nhiều tổ chức kinh doanh tiền tệ, những tổ chức môi giới tài chính, hoạt động như những chiếc cầu chuyên tải những khoản tiền tiết kiệm- tích luỹ được trong xã hội đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư. Nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau về tính chất cũng như về đối tượng và phương pháp kinh doanh. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ những nguyên nhân về lịch sử và chế độ kinh tế.
Lịch sử của ngân hàng thương mại là lịch sử kinh doanh tiền gửi. Từ chỗ làm nhiệm vụ nhận tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ bảo quản tiền cho người sở hữu để nhận những khoản thù lao, trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi nghĩa là huy động tiền gửi không những miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng gửi tiền để làm vốn cho vay nhằm tối ưu khoản lợi nhuận thu được.
Trong khi thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người cho vay sang người đi vay, các ngân hàng thương mại đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm phương tiện thanh toán, trong đó quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc- một trong những công cụ chủ yếu để tiền vận động qua ngân hàng và quá trình đó đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch trong giao lưu kinh tế là tiền qua ngân hàng. Do đó, hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi.
Trong thế giới hiện đại, tính cho đến thời điểm hiện nay thì ngân hàng thương mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng nhất trong thể chế tài chính mỗi nước. Hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực hẹp theo hướng chuyên sâu.
1.2. Tổng quan về DNNVV trong nền kinh tế
1.2.1. Khái quát về DNNVV
Mỗi một quốc gia đều có căn cứ khác nhau để xác định DNNVV, tuỳ thuộc vào điều kiện phát triển của từng nước và tuỳ vào từng giai đoạn phát triển. Tại công văn số 681/ CP– KTN ngày 20/06/1998 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động hàng năm dưới 200 người, tuỳ theo từng lĩnh vực, ngành mà có giới hạn riêng cho mỗi tiêu chí”.
Theo Điều 3- Nghị định của Chính phủ số 90/2001/ NĐ – CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thì: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình KT – XH cụ thể của ngành, của địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên”.
Với tiêu chí phân loại theo vốn và lao động thì có khoảng 80% các DNNN thuộc nhóm các DNNVV. Nếu tính theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới (WB) và Công ty Tài chính quốc tế (IFC) thì ngay cả một số tổng công ty của Việt Nam cũng nằm trong nhóm doanh nghiệp quy mô vừa. Vào thời điểm năm 2002, nếu tính tất cả các loại hình kinh doanh thì các DNNVV có trên 2 triệu đơn vị. Trong khu vực kinh tế tư nhân, các DNNVV chiếm khoảng 97% về vốn và khoảng 99% về lao động. Nguồn: Tổng cục Thống kê
Các DNNVV có thể tồn tại dưới các hình thức pháp lý sau: Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh, Hợp tác xã, Hộ kinh doanh cá thể.
Thực tế hiện nay không có một khái niệm thống nhất trên thế giới, mỗi nước dựa vào điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cụ thể để xác định. Cụ thể:
- Philipin: vốn đăng ký dưới 60 triệu Peso và lao động thường dưới 200 người
- Thái Lan: vốn đăng ký dưới 50 triệu Baht và lao động thường dưới 200 người
- Việt Nam: vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng và lao động thường dưới 300 người. Việt Nam không có tiêu thức định tính, nhưng thực chất chỉ các doanh nghiệp tư nhân trong nước mới thuộc diện DNNVV.
1.2.2. Đặc điểm của DNNVV
1.2.2.1. Những lợi thế của DNNVV
Các DNNVV thu hút được số lượng lao động lớn trong đó có cả lao động phổ thông và lao động có tay nghề, từ đó tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
DNNVV có vốn đầu tư ban đầu thấp, khả năng thu hồi vốn nhanh tạo điều kiện tăng tốc độ vòng quay vốn để đầu tư vào công nghệ tiên tiến từ đó giúp mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng hiệu quả sử dụng vốn. Sở dĩ như vậy là vì với số vốn đầu tư ban đầu không lớn nên các DNNVV thường chỉ có thể tham gia vào dự án nhỏ, thời gian đầu tư không dài nên vòng quay vốn đầu tư tất yếu nhanh, từ đó nhanh chóng đánh giá được kết quả đầu tư. Đây là điểm thu hút các nhà đầu tư đến với khu vực này.
DNNVV phát triển rộng khắp các vùng miền của đất nước, tham gia vào nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế, tạo ra những sản phẩm phù hợp với những nhu cầu ở những vùng khác nhau, số lượng sản phẩm ít hoặc tạo ra những sản phẩm thay thế các mặt hàng nhập khẩu với giá cả phù hợp. Đặc điểm này là mặt mạnh của DNNVV khi cạnh tranh với doanh nghiệp lớn vì các doanh nghiệp lớn thường chỉ quan tâm đến nhu cầu có qui mô lớn, sản xuất đại trà, những thị trường nhỏ thường bỏ qua. Với việc phân bố rộng khắp đất nước, các DNNVV sẽ có khả năng khai thác tốt nhất mọi tiềm năng, nguồn lực sẵn có của địa phương, đây là điều kiện thuận lợi cho các DNNVV hoạt động thuận lợi.
DNNVV được tổ chức quản lý gọn nhẹ, có khả năng quan hệ trực tiếp với thị trường và người tiêu dùng, dễ dàng tìm kiếm và đáp ứng các nhu cầu, thị hiếu dù là cho một nhóm khách hàng nhỏ mà doanh nghiệp lớn thường hay bỏ qua. Hơn nữa, mô hình quản lý gọn nhẹ cho phép doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí, tận dụng được các cơ hội kinh doanh mới, ngay cả khi gặp biến cố của môi trường kinh doanh cũng giúp doanh nghiệp dễ dàng thu hẹp quy mô sản xuất tránh được những tổn thất lớn.
DNNVV có tính năng động và linh hoạt trước những biến đổi của thị trường, có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh. Đây là lợi thế của các DNNVV so với doanh nghiệp lớn, bởi vì các doanh nghiệp lớn để quyết định thay đổi công nghệ cần có sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng về vốn, nhân lực, ứng dụng… sau đó mới đi vào thực thi, quá trình này đòi hỏi nguồn lực đầu tư là rất lớn.
DNNVV ít chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế xã hội mang tính dây chuyền nhờ có quy mô nhỏ. Bên cạnh, đó nếu bản thân các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả dẫn tới thua lỗ đến phá sản thì ảnh hưởng của nó cũng không gây nên những biến động sang các doanh nghiệp khác hoặc gây khủng hoảng kinh tế.
DNNVV chiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp hiện có trên cả nước, các DNNVV đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi cả tầm vĩ mô và vi mô. Những khó khăn đó là công nghệ sản xuất kinh doanh, mô hình quản lý, tiến độ, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo và tay nghề của người lao động, phương thức tiếp cận sản phẩm, đặc biệt là sự hạn chế về tiếp cận thông tin và dịch vụ tài chính, vốn đầu tư…
1.2.2.2. Những khó khăn của DNNVV
DNNVV rất hạn chế về khả năng tài chính, trước hết nguồn vốn tự có chủ yếu là do cá nhân và các tổ chức tự nguyện đóng góp nên khả năng vay vốn của ngân hàng cũng như huy động vốn trên thị trường tài chính bị hạn chế vì thiếu tài sản thế chấp, doanh nghiệp dễ bị tuột mất cơ hội làm ăn mới. Bên cạnh đó, hạn chế về tài chính cũng khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc quảng bá thương hiệu đến người tiêu dùng, các chiến lược Marketing như: chiến lược sản phẩm, chiến lược về giá, chiến lược phân phối… đều đòi hỏi tiềm lực tài chính đủ mạnh. Vì vậy, khả năng vươn xa ra khu vực và thế giới là rất khó. Chính bởi hạn chế về vốn đã kéo theo khả năng cạnh tranh của DNNVV cũng thấp. Với điểm yếu này DNNVV rất khó có thể tồn tại lâu dài trên thương trường nếu không đưa ra chiến lược phát triển riêng.
DNNVV còn yếu ở năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản lý, để thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao như hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Nhưng hầu hết công nghệ đang được sử dụng trong các DNNVV Việt Nam hiện được đánh giá là lạc hậu. Đại đa số những người chủ của các DNNVV không có kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Với nhiều người, mua công nghệ chỉ đơn giản là mua máy móc, thiết bị. Họ không quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đến các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ và một phần là do thiếu vốn, rất nhiều DNNVV đầu tư nhỏ giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy móc, thiết bị vừa làm vừa cải tiến. Hậu quả của cách làm đó là công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp này trở thành mớ hỗn độn, chắp vá.
Năng lực quản trị doanh nghiệp yếu, thiếu đội ngũ lao động có trình độ và kinh nghiệm. Có thể nói trình độ học vấn của người lao động và của chủ các DNNVV còn thấp. Trong số hơn 25% lao động có chuyên môn thì chỉ có 6% lao động có trình độ cao đẳng và đại học. Chủ doanh nghiệp có trình độ Đại học cũng chỉ khoảng 2%. Về cơ bản, đội ngũ này mới hình thành những năm 90, còn thiếu kinh nghiệm nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường mà trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay những kỹ năng đó là rất cần thiết, nó sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy một mặt là do các ngành nghề kinh doanh không đòi hỏi công nhân có tay nghề cao, mặt khác các doanh nghiệp không có chính sách đào tạo nhân lực có trình độ cao vì như thế doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra một khoản kinh phí lớn trong khi khả năng tài chính đang hạn hẹp, với số vốn đó họ có thể dùng để đầu tư vào dự án kinh doanh mới. Tuy nhiên, về lâu dài không phải là hướng đi đúng của doanh nghiệp nếu công nhân không có tay nghề thì sản phẩm làm ra không thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nhận định về các hoạt động đào tạo cho người lao động trên thị trường lao động nước ta hiện nay cho thấy vẫn có tình trạng mất cân đối trong cơ cấu lao động qua đào tạo: thừa thầy, thiếu thợ (tỷ lên đại học và trên đại học – trung học chuyên nghiệp – công nhân kỹ thuật là 1 – 1,13 – 0,92 so với thông lệ quốc tế là 1 – 3 – 5). Tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề còn thấp 13%. Việc lựa chọn ngành nghề của học sinh, sinh viên chủ yếu chạy theo thị hiếu thị trường nhất là một số ngành nghề “thời thượng” gây mất cân đối giữa các ngành nghề. Chất lượng giáo dục bậc cao còn yếu kém và ngày càng tụt hậu so với thế giới, chương trình, phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới, nặng về lý thuyết mà thiếu thực hành. Số lượng và chất lượng của đội ngũ giáo viên, giảng viên còn hạn chế. Đặc điểm trên là nguyên nhân mà lao động trong các DNNVV trình độ thấp và thiếu kinh nghiệm.
Hầu hết các DNNVV thành lập, hoạt động độc lập và tách biệt chưa tạo ra được mối liên kết lẫn nhau và với các doanh nghiệp lớn. Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước cho thấy một nền kinh tế sẽ không hoàn chỉnh và không hiệu quả, nếu chúng không có các doanh nghiệp lớn lẫn những DNNVV. Trong cơ cấu sản xuất của mình, các doanh nghiệp lớn ở nước ta thường hay đảm đương hay tiến hành luôn những hoạt động phụ thuộc. Chẳng hạn, thành lập đội vận tải, đội xây dựng cơ bản, đầu tư và điều hành căng – tin… Các hoạt động này làm tăng chi phí cố định, do đó làm giảm hiệu quả kinh tế so với các doanh nghiệp tương tự ở các nước phát triển. Trong khi ở các nước phát triển thì doanh nghiệp lớn sẽ sử dụng dịch vụ do DNNVV mang lại.
Ngoài ra, các DNNVV có thể cung cấp các chi tiết hay phụ tùng với giá rẻ hơn là doanh nghiệp lớn tự làm. Đây chính là điểm hạn chế mà các DNNVV ở nước ta chưa thực hiện được. Chính vì chưa tạo ra được mối liên kết để thu thập thông tin nên dẫn đến bỏ lỡ cơ hội làm ăn và thua thiệt trong kinh doanh. Do vậy, liên kết giữa các DNNVV với doanh nghiệp lớn sẽ nâng cao hiệu suất của hệ thống công nghiệp.
1.2.3. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường
Xác định rõ tầm quan trong của DNNVV đối với phát triển kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt đối xử so với DNNN giảm nhiều. Vai trò cụ thể của DNNVV thể hiện ở một số điểm như sau:
1.2.3.1. DNNVV góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Đây là thế mạnh rõ nét của DNNVV và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển DNNVV ở nước ta hiện nay. Nhu cầu việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách ở Việt Nam hiện nay. Thực tiễn cho thấy các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động nhất là ở nông thôn tăng thêm mỗi năm, đồng thời còn tiếp nhận số lao động từ các doanh nghiệp nhà nước dư ra qua việc cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai. Điều cần đặc biệt quan tâm hiện nay là cùng với tốc độ đô thị hoá, hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, số nông dân không có đất canh tác ngày càng tăng, cần có việc làm mới. Theo số liệu điều tra, trong những năm từ 1990 – 2003, đã có tới 687.410 ha đất được thu hồi cho các mục đích xây dựng các khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và cho các nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia khác. Theo bộ LĐTBXH, bình quân 1 ha bị thu hồi sẽ làm cho 13 lao động nông nghiệp bị mất việc. Trong khi đó, đất chuyển sang làm công nghiệp dịch vụ có thể tạo ra việc làm cho 50 – 100 lao động, song đó phải là lao động có tay nghề, có chuyên môn và nghiệp vụ. Khu vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế thu hút khoảng 25 – 26% lực lượng lao đông phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút lao động rất lớn vì suất đầu tư cho mỗi chỗ làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Theo điều tra, lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong một doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong công ty TNHH là 45 triệu đồng, trong khi lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại doanh nghiệp nhà nước là 87,5 triệu đồng. Tạo thêm việc làm giúp giải quyết vấn đề xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Vấn đề đặt ra là với số lượng lớn lao động phổ thông là chủ yếu thì các doanh nghiệp lớn thường hạn chế thu hút. Do đó, DNNVV sẽ là giải pháp tốt nhất cho người lao động. Nguồn: Tổng cục Thống kê
1.2.3.2. DNNVV đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
Mỗi năm, DNNVV đóng góp khoảng 25% - 26% GDP của cả nước, tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hóa, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động của cả nước.
Trong thời kỳ 2001 – 2005, trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là 1.343 nghìn tỷ đồng (tương đương 85 tỷ USD), vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân là 399,8 tỷ đồng, chiếm 29,8% tổng số. Đến thời kỳ 2006 – 2010, theo dự kiến, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phải đạt được 2.204 nghìn tỷ đồng (tương đương 139,5 tỷ USD), trong đó vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân phải đạt 748,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 34% so với tổng số. Thực tế cho thấy, hiệu quả sử dụng đồng vốn của khu vực DNNVV đang rất khả quan: để tạo ra 1 đồng doanh thu, các DNNN thuộc trung ương quản lý phải đầu tư 0,562 đồng vốn cố định, trong khi đó các DNNN do địa phương quản lý đầu tư 0,220 đồng, doanh nghiệp tư nhân chỉ cần 0,197 đồng, công ty TNHH 0,188 đồng. Nếu so sánh với các DNNN do trung ương quản lý, số vốn cố định mà DNNN do địa phương quản lý sử dụng cho 1 đồng doanh thu chỉ bằng 39%; các hợp tác xã bằng 53%, các doanh nghiệp tư nhân bằng 35%, còn công ty TNHH chỉ bằng 33%. Nguồn: Tổng cục Thống kê
1.2.3.3. DNNVV góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Xét về các loại cơ cấu, như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lãnh thổ, phân bố dân cư việc phát triển DNNVV sẽ tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại. Rất dễ thấy là mấy năm gần đây, bộ mặt kinh tế, xã hội của nhiều vùng nông thôn đã có những thay đổi theo hướng đó: Nhiều thị trấn, thị tứ đông đúc, nhộn nhịp hơn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được hình thành, đi đôi với giao thông nông thôn phát triển, đường dẫn điện toả ra nhiều vùng nông thôn… Bên cạnh đó, các DNNVV đóng vai trò quan trọng trong việc phân bố quá trình phát triển công nghiệp rộng khắp về mặt địa lý giữa các vùng với nhau, cũng như bên trong vùng. Tuy nhiên, các DNNVV chỉ là một trong những thành tố trong chiến lược phân bố công nghiệp theo địa bàn lãnh thổ, và thường chúng không phải là thành tố quan trọng nhất.
1.2.3.4. DNNVV là đối tác liên kết làm tăng sức mạnh của các doanh nghiệp lớn
Trong thời đại hiện nay, khi liên kết kinh tế đã trở thành tất yếu trong quan hệ kinh tế, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà đã mở ra trên phạm vi toàn cầu, thì liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp lại càng cấp thiết. Liên kết kinh tế giữa các DNNVV tạo nên sức mạnh của từng doanh nghiệp và của tổng thể nền kinh tế, bảo đảm cho mỗi sản phẩm, mỗi doanh nghiệp cũng như nền kinh tế mỗi nước đứng vững trước sự cạnh tranh có tính chất toàn cầu, hơn nữa, còn phát triển thêm thị phần của mình trên thị trường thế giới. DNNVV có thể liên kết với doanh nghiệp lớn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện các hợp đồng phụ, đặc biệt là tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm… Các doanh nghiệp lớn góp phần bảo đảm cho DNNVV nhu cầu về tài chính, công nghệ, thị trường, kể cả về kinh nghiệm quản lý… Một ví dụ như lương thực, một loại hàng xuất khẩu hàng đầu của nước ta. Thực tế cho thấy, rào cản lớn nhất trong hội nhập của lương thực nước ta là tình trạng sản xuất cá thể; lương thực nước ta không thể nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới, nếu không có sự liên kết giữa nhà nông với hợp tác xã và doanh nghiệp theo hướng nhà nông tham gia hợp tác xã hoặc cụm liên kết sản xuất với kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến và mỗi hợp tác xã hoặc cụm liên kết là một vùng nguyên liệu của một nhà doanh nghiệp, trong đó có cả DNNVV và doanh nghiệp lớn.
1.2.3.5. DNNVV góp phần nâng cao năng lực nhà kinh doanh và nhà quản trị
Khi hoạt động tích cực, lành mạnh, một trong những đóng góp quan trọng của khu vực DNNVV là phát triển nhân tố con người. Trong thực tế, DNNVV chẳng những cung cấp sản phẩm cho nền kinh tế, mà còn là nơi đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ doanh nhân mới phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường, một yếu tố đang thiếu thốn nghiêm trọng nơi các nước đang phát triển, đặc biệt là nước ta. Rồi đây, có những DNNVV vẫn tiếp tục giữ tổ chức của mình là nhỏ hoặc vì quy mô này phù hợp với khả năng kinh doanh, ngành nghề đang theo đuổi, nhưng cũng có những doanh nghiệp phát triển lên thành những doanh nghiệp có quy mô lớn. Để rồi các chủ DNNVV trở thành những chủ doanh nghiệp lớn hay nhà công nghiệp lớn, và sẽ đảm đương những vị trí kinh tế xã hội quan trọng. Họ được tôi luyện theo trình tự từ giản đơn đến phức tạp, từ thủ công hay bán thủ công sang hiện đại, từ thị trường trong nước đến thị trường nước ngoài, do đó kinh nghiệm và kiến thức kinh doanh của họ là một vốn quý cho nền kinh tế nói chung. Đó là những gương doanh nhân thành đạt do ý chí và quyết tâm rất đáng khích lệ. Dù ở quy mô nào, DNNVV cũng vẫn là những vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
1.2.3.6. DNNVV còn góp phần tiết kiệm vốn
Trong các nước phát triển, vốn là nguồn lực khan hiếm nghiêm trọng. Do đó, yêu cầu tiết kiệm vốn là một trong những yêu cầu hàng đầu. Trong quá trình góp phần tiến lên công nghiệp hoá đất nước, các DNNVV có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình với việc tiết kiệm vốn, nghĩa là phát triển lên, sản xuất được nhiều hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3904.doc