Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng - để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng số và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu nhập của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay.
Do nước ta đi lên từ một đất nước thuần nông nên sản xuất nhỏ với quy mô hộ là rất phổ biến. Theo chủ trương chính sách của đảng về phát triển kinh tế thì kinh tế hộ sản xuất giữ một vai trò quan trọng, đặc biệt là các hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Tiên Lãng là một huyện ngoại thành thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 20 km về phía Tây Nam, chung quanh sông biển bao bọc, dân số gần 15 vạn người, kinh tế chủ yếu là cây lúa, đời sống nhân dân còn khó khăn. Từ sau khi thực hiện Nghị định 10 của bộ chính trị về nông nghiệp, nông thôn và nông dân, theo đó các hộ sản xuất nông nghiệp được trao quyền sử dụng đất lâu dài để tự chủ sản xuất, thì kinh tế hộ tại Tiên Lãng càng phát triển. Bên cạnh sự phát triển đó thì nhu cầu vốn đầu tư của hộ sản xuất cũng phát triển. Do đó, họ đã huy động vốn bằng nhiều cách khác nhau nhưng hoạt động vốn thông qua tín dụng ngân hàng vẫn là chủ yếu.
Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng, vận dụng những lí thuyết vào thực tế em thấy rằng Ngân hàng đã tiếp cận và cố gắng đáp ứng nhu cầu vốn của hộ sản xuất, coi họ là khách hàng quan trọng của mình. Trong những năm gần đây, Ngân hàng đã mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất. Tuy nhiên mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng phải đi liền với nhau, có thể ví như một bàn cân. Nếu như quá mở rộng tín dụng mà không chú ý nâng cao chất lượng tín dụng phòng ngừa rủi ro thì hiệu quả cho vay thấp, nợ quá hạn gia tăng, thu lãi không đạt kế hoạch, dẫn đến nợ đọng ngày càng cao, nguy cơ mất vốn lớn. Do vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất. Đây là một vấn đề cần được xem xét và bàn bạc. Do vậy em đã chọn đề tài :
“ Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng ” .
Bằng các biện pháp nghiên cứu như duy vật biện chứng, thống kê tổng hợp, phân tích, đánh giá, tổng kết em xin đưa ra một số ý kiến về hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ sản suất tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng. Trong chuyên đề thực tập này, em chỉ đề cập đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với hộ sản xuất trên địa bàn huyện Tiên Lãng.
Bố cục của chuyên đề được chia làm 3 chương với những nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng.
62 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1153 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Lãng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng - để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng số và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu nhập của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay.
Do nước ta đi lên từ một đất nước thuần nông nên sản xuất nhỏ với quy mô hộ là rất phổ biến. Theo chủ trương chính sách của đảng về phát triển kinh tế thì kinh tế hộ sản xuất giữ một vai trò quan trọng, đặc biệt là các hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Tiên Lãng là một huyện ngoại thành thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 20 km về phía Tây Nam, chung quanh sông biển bao bọc, dân số gần 15 vạn người, kinh tế chủ yếu là cây lúa, đời sống nhân dân còn khó khăn. Từ sau khi thực hiện Nghị định 10 của bộ chính trị về nông nghiệp, nông thôn và nông dân, theo đó các hộ sản xuất nông nghiệp được trao quyền sử dụng đất lâu dài để tự chủ sản xuất, thì kinh tế hộ tại Tiên Lãng càng phát triển. Bên cạnh sự phát triển đó thì nhu cầu vốn đầu tư của hộ sản xuất cũng phát triển. Do đó, họ đã huy động vốn bằng nhiều cách khác nhau nhưng hoạt động vốn thông qua tín dụng ngân hàng vẫn là chủ yếu.
Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng, vận dụng những lí thuyết vào thực tế em thấy rằng Ngân hàng đã tiếp cận và cố gắng đáp ứng nhu cầu vốn của hộ sản xuất, coi họ là khách hàng quan trọng của mình. Trong những năm gần đây, Ngân hàng đã mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất. Tuy nhiên mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng phải đi liền với nhau, có thể ví như một bàn cân. Nếu như quá mở rộng tín dụng mà không chú ý nâng cao chất lượng tín dụng phòng ngừa rủi ro thì hiệu quả cho vay thấp, nợ quá hạn gia tăng, thu lãi không đạt kế hoạch, dẫn đến nợ đọng ngày càng cao, nguy cơ mất vốn lớn. Do vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất. Đây là một vấn đề cần được xem xét và bàn bạc. Do vậy em đã chọn đề tài :
“ Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng ” .
Bằng các biện pháp nghiên cứu như duy vật biện chứng, thống kê tổng hợp, phân tích, đánh giá, tổng kết em xin đưa ra một số ý kiến về hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ sản suất tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng. Trong chuyên đề thực tập này, em chỉ đề cập đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với hộ sản xuất trên địa bàn huyện Tiên Lãng.
Bố cục của chuyên đề được chia làm 3 chương với những nội dung cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT huyện Tiên Lãng.
Chương 1
Khái quát hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
1.1/ Khái niệm và đặc điểm hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
1.1.1/ Khái niệm cho vay
Theo điều 3 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của thống đốc NHNN, “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tính chất tín dụng giao cho khách hàng dùng một khoản tiền để dùng vào mục đích và thời gian quyết định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
Như vậy, ta có thể hiểu cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Có nghĩa là, khi hoạt động cho vay phát sinh, hai bên sẽ cam kết với nhau như sau:
+ Ngân hàng sẽ trao cho người vay một khoản tiền.
+ Còn phía người vay phải cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tiền vay trong một thời gian quyết định và theo một số điều kiện nhất định nào đó.
1.1.2/ Đặc điểm cho vay:
+ Cho vay là hoạt động có kiểm soát của ngân hàng, không có một ngân hàng nào sau khi cho vay lại chờ cho đến khi hoạt động tín dụng kết thúc. Mỗi ngân hàng phải có một chính sách kiểm soát nhất định đối với khách hàng của mình về quá trình kinh doanh và sử dụng vốn.
+ Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng, thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu, đó là doanh số cho vay và dư nợ.
- Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ.
- Dư nợ cuối kỳ: là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ.
+ Đối tượng cho vay của các ngân hàng thương mại bao gồm: giá trị vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị và các khoản chi phí để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống đã được tổ chức tín dụng thẩm định và chấp nhận cho vay.
+ Thời hạn cho vay: là khoảng thời gian kể từ khi người vay nhận tiền vay đến khi người vay thanh quyết toán hết nợ vay với ngân hàng. Đây là khoảng thời gian chính thức xác lập và tồn tại quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, đồng thời cũng là căn cứ để xác định nghĩa vụ của người vay đối với ngân hàng khi tính lãi tiền vay, cũng như khi kiểm tra tính mục đích trong quá trình sử dụng vốn vay của người vay.
+ Cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng nhưng cũng chịu rủi ro nhất.
+Tiền cho vay là một món nợ đối với người vay nhưng nó lại là một tài sản có giá trị đối với ngân hàng vì nó mang lại thu nhập cho ngân hàng.
+ Tiền cho vay kém lỏng hơn so với các tài sản khác vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi khoản vay đó mãn hạn. Đồng thời tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn.
+ Cho vay được ngân hàng cung cấp trên phạm vi rộng, đối với mọi thành phần kinh tế xã hội.
1.2/ Vai trò và nguyên tắc cho vay của Ngân hàng Thương mại
1.2.1/ Vai trò của hoạt động cho vay
1.2.1.1/Đối với ngân hàng thương mại:
+ Cho vay là một nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại, là loại tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng do đó cũng là loại tài sản chiếm quy mô lớn trong khoản mục tài sản của ngân hàng thương mại. Với quy mô lớn như vậy, cho vay ảnh hưởng tới rất nhiều chiến lược hoạt động của ngân hàng như dự trữ, vay, đầu tư.
+ Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, nộp thuế và các loại phí trong kinh doanh, bù đắp những tổn thất về rủi ro, có thể nói cho vay mang lại thu nhập lớn nhất cho các ngân hàng thương mại.
1.2.1.2/ Đối với nền kinh tế:
+ Cho vay đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tín dụng... của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
+ Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả 3 giai đoạn: dự trữ- sản xuất- lưu thông. Từ đó xảy ra hoạt động thừa vốn và thiếu vốn tạm thời của các doanh nghiệp, tức là tại một thời điểm quyết định có những đơn vị kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và có những đơn vị tạm thời thiếu vốn. Đây là hoạt động xảy ra thường xuyên và phổ biến trong bất kỳ nền kinh tế nước nào. Hoạt động cho vay đã góp phần phân phối lại vốn tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn trong các doanh nghiệp, điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
+ Hoạt động cho vay vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế. Bởi vì để mở rộng sản xuất, đối với từng doanh nghiệp yêu cầu về vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào vốn tự có mà còn phải biết dựa vào nhiều nguồn khác nhau trong xã hội, trong đó nguồn đi vay là rất cần thiết và quan trọng.
1.2.2/ Nguyên tắc cho vay của NHTM
1.2.2.1/Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và có hiệu quả kinh tế .
Với nguyên tắc này, khi vay vốn người vay phải trình bày phương án, kế hoạch tín dụng, đồng thời phải xác định rõ mục đích, đối tượng sử dụng vốn và cam kết sẽ sử dụng vốn đúng mục đích, đối tượng đó nếu được tổ chức tín dụng chấp thuận. Trong quá trình sử dụng vốn, nếu sai cam kết người vay sẽ chịu trách nhiệm trước ngân hàng theo luật định và theo hợp đồng.
Thực tế đã chứng minh khi đồng vốn được sử dụng đúng mục đích, đối tượng thì có thể hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro không đáng có đối với tiền vốn của ngân hàng.
1.2.2.2/ Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả vốn gốc và lãi vay theo đúng thời hạn đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Đây là một nguyên tắc quan trọng bắt nguồn từ nguyên tắc tự chủ về tài chính trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, từ đặc điểm luân chuyển vốn trong các doanh nghiệp và đồng thời cũng là đặc trưng của tín dụng là “có vay, có trả”.
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh như tất cả các lĩnh vực khác. Bởi vậy, khi ngân hàng cấp vốn cho người vay là thời điểm chính thức bắt đầu một chu kỳ kinh doanh, vốn được đầu tư vào các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Khi người vay hoàn trả nợ vay, chu kỳ kinh doanh của ngân hàng kết thúc. Với ý nghĩa đó, người vay phải hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi thì khả năng tái kinh doanh của ngân hàng mới có thể thực hiện được.
Biểu hiện trong thực tế của nguyên tắc này:
- Khi vay vốn người vay phải cam kết hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng bằng một điều khoản trong hợp đồng tín dụng hoặc khế ước nhận nợ.
- Đến kỳ hạn hoàn trả theo cam kết nếu người vay thiếu hoặc mất khả năng thanh toán và không được ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ thì ngân hàng được quyền áp dụng các điều khoản trong thể lệ tín dụng hiện hành để xử phạt người vay ( chuyển nợ quá hạn, phát mại tài sản thế chấp, phong toả tài sản của người vay hoặc khởi kiện trước pháp luật ) .
1.2.2.3/ Vốn vay phải được đảm bảo bằng tài sản:
Đây là nguyên tắc đảm bảo cho sự sống còn của các ngân hàng thương mại, giúp ngân hàng ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất, kể cả các trường hợp con nợ hoàn toàn mất khả năng thanh toán. Đảm bảo tiền vay được coi như một cơ sở vật chất vững chắc để đảm bảo sự an toàn tiền vốn của các ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường. Về mặt lý thuyết cũng như trong thực tệ, đảm bảo tiền vay có thể được thực hiện đồi với các hình thức sau:
- Người vay thế chấp tài sản.
- Người vay phải được bảo lãnh bởi người thứ ba.
- Người vay thế chấp nợ vay bằng chính tài sản được hình thành từ nguồn vốn vay của ngân hàng.
Việc áp dụng hình thức đảm bảo nào hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cuả người vay và cơ chế tín dụng hiện hành.
.2.2.4/ Cho vay phải đề phòng và có biện pháp tránh rủi ro
Đây là một nguyên tắc hết sức quan trọng để thực hiện việc thu hồi vốn đầy đủ, tránh mất mát dẫn đến sự phá sản của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, sự phá sản của các doanh nghiệp dẫn đến việc tổn thất trong việc cấp tín dụng của ngân hàng là có thể xảy ra nên ngân hàng không tập trung vốn vay cho một số tổ chức kinh tế.
1.3/ Phân loại cho vay:
Có nhiều cách phân loại cho vay khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục đích quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:
1.3.1/ Phân loại theo thời gian:
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của ngân hàng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, cho vay được phân thành:
+ Cho vay ngắn hạn : đến 12 tháng.
+ Cho vay trung hạn : trên 12 tháng đến 60 tháng.
+ Cho vay dài hạn : trên 60 tháng.
Các ngân hàng thường cho vay ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Tại các ngân hàng thương mại thường thì tỷ trọng cho vay ngắn hạn cao hơn cho vay trung dài hạn.
Cho vay trung hạn nhằm tài trợ cho tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi....có yêu cầu tài trợ từ trên 1 năm đến 5 năm.
Cho vay dài hạn nhằm tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay, máy móc thiết bị....có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu, có yêu cầu tài trợ trên 5 năm.
Tỷ trọng giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung- dài hạn bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng, định hướng kinh doanh của ngân hàng, khả năng dự báo rủi ro của ngân hàng....
1.3.2/ Phân loại theo tài sản đảm bảo :
Theo Điều 4 mục 1 tại Nghị định 178/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính Phủ quy định rõ “ việc cho vay có đảm bảo bằng tài sản, cho vay không có đảm bảo theo quy định của Nghị định này và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng Nhà nước cho vay không có đảm bảo bằng tài sản theo chỉ định của Chính Phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay này được Chính Phủ xử lý”.
Do đó, căn cứ năng lực, uy tín và phương án kinh doanh của từng khách hàng, ngân hàng sẽ quyết định cho vay có tài sản đảm sản hay không có tài sản đảm bảo.
+ Cho vay có tài sản đảm bảo là hình thức cho vay mà khoản cho vay đó có sự đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba, tức là ngân hàng sẽ có nguồn thu nợ thứ hai khi ngân hàng thu nợ thứ nhất không thực hiện được.
+ Cho vay không có tài sản đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ 3, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng như: làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra nợ nần, có quan hệ lâu dài với ngân hàng ... hoặc cho vay theo chỉ thị của Chính phủ.
1.3.3/ Một số cách phân loại khác.
+ Phân theo ngành kinh tế ( công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng.....)
+ Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng...).
+ Theo đối tượng khách hàng ( doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hợp tác xã nông nghiệp, cá nhân, hộ gia đình... )
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ vốn song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế.
1.4/ Hình thức cho vay
1.4.1/ Cho vay trực tiếp
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chr tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay. Thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành hồ sơ ( khế ước nhận nợ ) khác nhau.
1.4.2/ Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay thông qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ.... Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo một mục đích riêng song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các tổ chức trung gian rất quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như nợ, phát tiền vay.... Tổ chức trung gian có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh xho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi phí của trung gian, ngân hàng để lại một phần thu nhâp cho trung gian.
Khi các ngân hàng tham gia vào việc tài trợ gián tiếp và để lại một khoản dự trữ cho vay để bảo vệ các tổ chức trung gian cũng như ngân hàng tránh khỏi những thiệt hại phát sinh, đồng thời tiết kiệm cho ngân hàng lượng thời gian và chi phi không nhỏ.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay ( phân tích, giám sát, thu nợ) . Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng.
Tuy nhiên, nếu ngân hàng không kiểm soát tốt, nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
1.5/ Phương thức cho vay
1.5.1/ Cho vay từng lần ( cho vay theo món)
Phương thức này sử dụng tài khoản cho vay đơn giản, được thực hiện trên cở từng phương án, từng thương vụ theo yêu cầu của mỗi bên vay, áp dụng cho các đơn vị tổ chức kinh tế có đủ điều kiện vay vốn nhưng không đủ điều kiện để vay theo tài khoản luân chuyển, hay doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Mỗi lần vay doanh nghiệp phải làm đơn xin vay có giải trình cụ thể về mục đích vay vốn, số lượng cần vay, số vốn doanh nghiệp có khả năng trả nợ vốn vay. Đây là phương thức cho vay áp dụng phổ biến ở Việt Nam. Mỗi kế hoạch sản xuất quý, mỗi phương án, mỗi thương vụ, mỗi nhu cầu vay vốn, đó là một món vay.
Trong cho vay từng lần thì vốn tín dụng chỉ tham gia vào một giai đoạn hay một quy trình nhất định trong chu kỳ sản xuất kinh doanh, chu kỳ luân chuyển vốn của đơn vị hoặc tham gia vào toàn bộ quá trình đó nhưng không thường xuyên liên tục. Về phía ngân hàng thì việc cho vay và thu nợ được xử lý theo từng món vay.
Nếu đến kỳ hạn trả nơ mà bên vay không có đủ tiền để trả thì họ cần phải làm đơn xin gia hạn. Thời gian gia hạn sẽ vượt quá thời hạn trước cho vay trước đây hoặc không vượt quá một chu kỳ sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nếu không có lý do chính đáng thì ngân hàng sẽ thực hiện chuyển nợ quá hạn và thông báo cho bên vay biết. Trường hợp cuối cùng vì lý do đặc biệt mà bên vay không trả được nợ thì một mặt đơn vị vay vốn phải làm đơn xin gia hạn và mặt khác ngân hàng gửi hồ sơ trình cấp trên xin được khoanh nợ. Sau khi được Chính phủ cho phép khoanh nợ thì đơn vị vay vốn sẽ được tiếp tục vay vốn ngân hàng. Nếu đến kỳ hạn trả nợ mà người đi vay không đủ tiền để trả thì ngân hàng sẽ thu lãi trước còn bao nhiêu sẽ trừ vào nợ gốc hoặc thu tương ứng gốc và lãi.
Cho vay theo món rất thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Nêú doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ ( hàng hoá tồn đọng ) thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
1.5.2/ Cho vay thấu chi
Phương thức xho vay này cho phép người vay được phép chi trội ( chi vươt ) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Hạn mức thấu chi được xác định dựa trên cơ sở số dư bình quân tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng và tỷ lệ hạn mức thấu chi thoả thuận giữa hai bên. Để được vay theo hạn mức thấu chi, các khách hàng phải là khách hàng quen biết, thường xuyên giao dịch qua ngân hàng, tình hình tài chính tương đối ổn định. Ngân hàng và khách hàng cần xác định và thoả thuận bằng văn bản về hạn mức thấu chi và thời hạn hiệu lực của hạn mức đó để áp dụng.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin vay ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thâu chi ( có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng ). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua séc, vượt quá số dư tiền gửi để chi trả. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi thì ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ bị lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Phương thức cho vay này tạo đỉều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi tuy là loại hình tín dụng cổ điển nhưng có nhiều ưu điểm, vì giảm bớt được nhiều thủ tục vay vốn rườm rà, tiết kiệm được nhiều chi phí cho cả ngân hàng lẫn khách hàng vay vốn. Thấu chi là phương thức cho vay mới được phép áp dụng ở Việt Nam từ năm 2002 theo quy chế cho vay mới ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam.
1.5.3/ Cho vay luân chuyển
Phương thức cho vay luân chuyển hàng hoá là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Một khoản cho vay luân chuyển cho phép khách hàng có thể vay tới một mức tối đa và xác định trước sẽ hoàn trả toàn bộ hay trả một phần khoản vay và tiếp tục vay khi có nhu cầu cho đến khi hợp đồng cho vay hết hạn.
Cho vay luân chuyển là một trong những khoản cho vay kinh doanh linh hoạt nhất. Các khoản cho vay như thế có thể ngắn hạn hoặc có thể kéo dài 3-4 năm, thậm chí đến 5 năm. Loại hình tín dụng này được áp dụng nhiều nhất khi khách hàng không chắc chắn về thời gian của các luồng tiền mặt hay về quy mô chính xác của nhu cầu vay vốn trong tương lai. Cho vay luân chuyển giúp khách hàng vay thêm tiền mặt trong lúc khó khăn khi mà dân số bán hàng giảm và cho phép hoàn trả khi nguồn thu bằng tiền của khách hàng tăng lên.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên và đúng hạn với ngân hàng ( thường là khách hàng truyền thống ).
1.5.4/ Cho vay theo hạn mức
Đây là phương thức cho vay theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối các kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng . Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay- trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt qúa hạn mức tín dụng. Mỗi lần khách hàng vay chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
+ Trong ngắn hạn:
Han mức tín dụng ngắn hạn = Nhu cầu vốn lưu động kỳ kế hoạch – ( Nguồn kinh doanh ngắn hạn + Nguồn vốn tự có + Nguồn vốn khác)
+ Trong trung, dài hạn:
Hạn mức tín dụng trung, dài hạn = Tổng dự toán chi phí – Nguồn vốn đầu tư tự có.
1.6/ Hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất
1.6.1/ Khái quát về hộ sản xuất
Trong điều kiện của nước ta hiện nay khi lực lượng sản xuất chưa phát triển cho phép cho phép thu hút hết nguồn lực vào sản xuất tập trung một cách có hiệu quả, khi mà còn đến 70% dân số sống bằng nghề nông, khi Nhà nước muốn khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống thì hôn sản xuất tồn tại là một tất yếu.
1.6.1.1/ Khái niệm hộ sản xuất
Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Kinh tế hộ sản xuất cùng các thành phần kinh tế khác tạo nên sự gắnbó, song song tồn tại và cùng nhau phát triển. Thực tế cho thấy ở nước ta kinh tế hộ sản xuất đã đưa lại kết quả không nhỏ trong việc phát triển nền kinh tế thông qua việc tạo công ăn việc làm, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi, tạo sản phẩm và duy trì các ngành nghề truỳên thống.
1.6.1.2/ Đặc điểm của hộ sản xuất
+ Về nhân lực : Hộ sản xuất chủ yếu sử dụng nguồn lực tự có với quy mô gia đình. Tuy nhiên khi cần họ cũng có thể thuê thêm lao động để mở rộng sản xuất.
+ Về ngành nghề : Hộ sản xuất hoạt động kinh doanh trên rất nhiều lĩnh vực, với nhiều ngành nghề đa dạng và phong phú, bao gồm sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thậm chí có hộ còn tham gia sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu.
+ Về quy mô sản xuất : Hộ sản xuất thường hoạt động với quy mô nhỏ, tức là quy mô gia đình và trang trại là chủ yếu. Do điều kiện về nguồn, khả năng quản lý, sức cạnh tranh trên thị trường ...nên hộ sản xuất rất khó mở rộng quy mô.
+ Về năng lực quản lý : Khả năng quản lý của hộ còn rất nhiều hạn chế. Khả năng quản lý và tổ chức sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm được tích luỹ trong cuộc sống.
1.6.1.3/ Phân loại hộ sản xuất
Để hoạt động của ngân h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 80.doc