Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giúp đỡ các nhà đầu tư, phát triển thị trường vốn, thị trường ngoại hối, tham gia thanh toán và hỗ trợ thanh toán.
Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng của nền kinh tế, để phù hợp với xu hướng đa dạng hóa các hoạt động của ngân hàng nhằm phục vụ bổ sung vốn lưu động và vốn cố định cho doanh nghiệp, hệ thống NHTM Việt Nam cũng đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bên cạnh hoạt động ngắn hạn truyền thống.
Tuy nhiên, cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng cũng chứa đầy rẫy những rủi ro. Do đặc thù kinh doanh tín dụng ngân hàng là kinh doanh chủ yếu dựa vào tiền của người khác, kinh doanh qua tay người khác nên rủi ro trong hoạt động tín dụng cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp, vì nó vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của chính bản thân ngân hàng và vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hậu quả của nó rất dễ lan truyền trong cả hệ thống ngân hàng, gây ra những vụ hoảng loạn và sụp đổ của hàng loạt ngân hàng cùng một loạt hậu quả nghiêm trọng khác về mọi mặt kinh tế xã hội, đặc biệt là lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Chính phủ bị suy giảm.
Vì vậy vấn để đặt ra ở đây là làm sao hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, trong khi chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020 của Đảng, Nhà nước theo hướng CNH-HĐH đòi hỏi việc triển khai nhiều dự án đầu tư.Muốn vậy thì những dự án này phải đảm bảo chất lượng, tức là phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án.Chính vì vậy vai trò to lớn của công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án đầu tư là không thể phủ nhận được.
Em hoàn thành chuyên để thực tập : “ Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải, chi nhánh Đống Đa ”.
Chuyên đề thực tập gồm ba chương:
Chương I :Những vấn đề lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính
dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM.
Chương II :Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải-chi nhánh Đống Đa.
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải-chi nhánh Đống Đa
93 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải, chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giúp đỡ các nhà đầu tư, phát triển thị trường vốn, thị trường ngoại hối, tham gia thanh toán và hỗ trợ thanh toán...
Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng của nền kinh tế, để phù hợp với xu hướng đa dạng hóa các hoạt động của ngân hàng nhằm phục vụ bổ sung vốn lưu động và vốn cố định cho doanh nghiệp, hệ thống NHTM Việt Nam cũng đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bên cạnh hoạt động ngắn hạn truyền thống.
Tuy nhiên, cũng như mọi hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng cũng chứa đầy rẫy những rủi ro. Do đặc thù kinh doanh tín dụng ngân hàng là kinh doanh chủ yếu dựa vào tiền của người khác, kinh doanh qua tay người khác nên rủi ro trong hoạt động tín dụng cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp, vì nó vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của chính bản thân ngân hàng và vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hậu quả của nó rất dễ lan truyền trong cả hệ thống ngân hàng, gây ra những vụ hoảng loạn và sụp đổ của hàng loạt ngân hàng cùng một loạt hậu quả nghiêm trọng khác về mọi mặt kinh tế xã hội, đặc biệt là lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Chính phủ bị suy giảm.
Vì vậy vấn để đặt ra ở đây là làm sao hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, trong khi chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020 của Đảng, Nhà nước theo hướng CNH-HĐH đòi hỏi việc triển khai nhiều dự án đầu tư.Muốn vậy thì những dự án này phải đảm bảo chất lượng, tức là phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án.Chính vì vậy vai trò to lớn của công tác thẩm định tín dụng dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án đầu tư là không thể phủ nhận được.
Em hoàn thành chuyên để thực tập : “ Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải, chi nhánh Đống Đa ”.
Chuyên đề thực tập gồm ba chương:
Chương I :Những vấn đề lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính
dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM.
Chương II :Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải-chi nhánh Đống Đa.
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn tại NHTM cổ phần Hàng Hải-chi nhánh Đống Đa
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
MSB, Maritime bank : Viết tắt của Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải
LNTT : Lợi nhuận trước thuế
TNDN : Thu nhập doanh nghiệp
LNST : Lợi nhuận sau thuế
MỤC LỤC
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM
1.1.Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1.Định nghĩa hoạt động cho vay của NHTM
Trải qua nhiều thế kỉ từ khi xuất hiện đến nay hệ thống các ngân hàng thương mại với hàng ngàn chi nhánh ở khắp năm châu đã không ngừng thể hiện tầm quan trọng không thể thiếu của mình đối với sự phát triển nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia riêng biệt. Chính hệ thống Ngân hàng với những phương tiện giao dịch hiện đại (Ngân hàng điện tử) đang từng bước xoá bỏ sự ngăn cách về địa lý, không gian và thời gian làm cho các lục địa xích lại gần nhau hơn.
Ngày nay hoạt động ngân hàng không còn chỉ đơn điệu với những nghiệp vụ đơn giản như nhận tiền gửi, đổi tiền…mà đã trở nên vô cùng phong phú đa dạng với homebanking, thẻ ngân hàng, chuyển tiền điện tử,….Tuy nhiên những khoản dịch vụ hiện đại này mới chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu tài sản của ngân hàng, còn phần tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của ngân hàng vẫn là các dịch vụ cho vay.
Vậy cho vay là gì?
Thực chất cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Hoạt động cho vay cũng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi cho vay thúc đẩy tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Không những vậy thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm những thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với chi phí thấp hơn. Đối với hầu hết các ngân hàng thương mại, đặc biệt ở các nước đang phát triển thì thu nhập từ cho vay chiếm quá nửa tổng giá trị tổng nguồn thu của ngân hàng.
1.1.2. Phân loại cho vay
Về cách phân loại có rất nhiều cách khác nhau, tuỳ theo mỗi tiêu thức phân loại và tuỳ theo từng ngân hàng mà hoạt động cho vay được chia ra làm nhiều loại, nhằm thuận tiện cho quản lý và phù hợp với mục đích vay vốn của khách hàng.
*Dựa vào mục đích cho vay- theo tiêu thức này cho vay có thể phân chia thành các loại sau:
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệ
- Cho vay tiêu dùng cá nhân
- Cho vay bất động sản
- Cho vay nông nghiệp
- Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
* Dựa vào thời hạn cho vay- theo tiêu thức này cho vay có thể phân chia thành các loại sau:
- Cho vay ngắn hạn
- Cho vay trung hạn
- Cho vay dài hạn
* Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng- theo tiêu thức này cho vay có thể phân chia thành các loại sau:
- Cho vay không có đảm bảo
- Cho vay có đảm bảo
* Dựa vào phương thức cho vay- theo tiêu thức này cho vay có thể phân chia thành các loại sau:
- Cho vay theo món
- Cho vay theo hạn mức tín dụng
- Cho vay theo định mức thấu chi
* Dựa vào phương thức thanh toán trả nợ vay- theo tiêu thức này cho vay có thể phân chia thành các loại sau:
- Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn
- Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp
- Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy khả năng tài chính của mình, người đi vay có thể trả nợ bất cứ khi nào
Đối với những ngân hàng phân chia hoạt động cho vay theo tiêu thức thời gian thì phần cho vay trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu cho vay.
1.2.Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
1.2.1.Khái niệm cho vay trung và dài hạn
Quan niệm về cho vay trung và dài hạn tại các nước khác nhau trên thế giới là không giống nhau. Tại thị trường tài chính Việt Nam cho vay trung và dài hạn vẫn được coi là các khoản cho vay có thời hạn trên 1 năm. Trong đó:
Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 3 năm
Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn trên 3 năm.
1.2.2.Các phương thức cho vay trung và dài hạn
Mục đích của cho vay trung và dài hạn là nhằm đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp. Dựa vào mục đích cho vay, ngân hàng có thể cho khách hàng vay vốn dài hạn để đầu tư mua sắm tài sản cố định như máy móc, thiết bị hoặc cho khách hàng vay vốn dài hạn để đầu tư vào một dự án đầu tư. Cho nên về phương thức cho vay dài hạn có thể là:
*Cho vay mua sắm máy móc thiết bị
*Cho vay đầu tư dự án
1.3.Hoạt động thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
1.3.1.Khái niệm về hoạt động thẩm định tài chính dự án
Đối với bất kỳ một dự án nào khi được đưa vào xem xét để thực hiện thì vấn đề được quan tâm hàng đầu là tính khả thi của dự án. Tính khả thi của dự án sẽ được thể hiện thông qua sự phù hợp về mặt kỹ thuật, mặt kinh tế và tài chính của dự án đối với nền kinh tế, với sự quản lý của nhà nước, với nhà đầu tư và với chủ dự án. Trong đó tuỳ theo từng dự án được thiết kế phục vụ cho các mục đích khác nhau (như dự án vì cộng đồng, dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,...) mà những tiêu chí về kinh tế, về kĩ thuật hay về tài chính sẽ được đề cao. Tuy nhiên cho dù đề cao tiêu chí nào đi chăng nữa thì sự xem xét thẩm định về mặt tài chính của một dự án trước khi đưa vào thực thi là không thể xem nhẹ.
Thẩm định tài chính dự án là sự rà soát đánh giá một cách khoa học, toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư bao gồm doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác và các cá nhân.
Khác với lập dự án đầu tư, thẩm định tài chính dự án cố gắng phân tích và hiểu được tính chất khả thi thực sự của dự án về mặt kinh tế đứng trên góc độ của Ngân hàng
Việc thẩm định tài chính dự án là vô cùng quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Vì trong hoạt động cho vay, các ngân hàng thương mại chính là các nhà tài trợ vốn. Ngoài những dự án ngân hàng cho vay theo chỉ định của chính phủ nhằm phục vụ cộng đồng thì yếu tố lợi nhuận không được đặt nên hàng đầu, còn lại hầu hết cho vay các dự án khác đều nhằm mục đích tạo thu nhập cho ngân hàng.
1.3.2.Sự cần thiết của công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
Công tác thẩm định tài chính dự án là một hoạt động không thể thiếu. Ngân hàng sẽ dựa vào đó để xem xét và quyết định có cho khách hàng vay hay không. Thực tế những giải trình từ phía doanh nghiệp đối với ngân hàng về dự án cần vay vốn thường rất sơ sài, đôi khi có số liệu không đủ căn cứ để chứng minh tính sát thực. Do đó ngân hàng cần phải tiến hành kiểm tra chính xác thông tin mà khách hàng đưa ra.
* Đối với chủ dự án : Thông thường khi quyết định đầu tư một dự án, chủ đầu tư phải cân nhắc giữa nhiều lựa chọn khác nhau, nghĩa là nhiều dự án khác nhau trong cùng một giai đoạn. Mặt khác tuy chủ dự án đã nắm vững những vấn đề, những chi tiết kỹ thuật của dự án nhưng đôi khi khả năng thu thập nắm bắt những thông tin mới của doanh nghiệp bị hạn chế, nhất là trong xu thế kinh tế xã hội mới, dẫn đến giảm tính chính xác trong phán đoán của họ, công tác thẩm định dự án sẽ đi sâu vào làm rõ vấn đề này, giúp doanh nghiệp lựa chọn phương án tốt nhất mang lại hiệu quả cao nhất cho chủ đầu tư.
* Đối với ngân hàng : để ngăn chặn sự đổ bể, sự lãng phí vốn khi ngân hàng tài trợ hay cho vay vốn, thì ngân hàng cần phải thẩm định lại tính hiệu quả của dự án, đặc biệt là hiệu quả về mặt tài chính. Đây là vấn đề rất quan trọng vì nếu để xảy ra bất kỳ rủi ro nào thì sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn vốn cũng như uy tín của ngân hàng.
* Đối với xã hội : Mỗi một dự án khi thực hiện nó không chỉ ảnh hưởng đến chủ dự án, ngân hàng… mà nó còn có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, an sinh xã hội nơi tiến hành dự án. Vì vậy ngân hàng cần phải tiến hành thẩm định lại dự án, để xem xét một cách toàn diện khi có chi phí xã hội dự án, hiệu quả tài chính dự án có được đảm bảo hay không, có phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển của vùng, địa phương không.
Với sự cần thiết như vậy thì khi ngân hàng thực hiện nội dung thẩm định tài chính dự án sẽ bao gồm những nội dung gì, các bước thực hiện như thế nào?
1.4.Nội dung công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM.
1.4.1.Thẩm định dự toán đầu tư và nguồn tài trợ.
Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư về ngắn hạn là tối đa hoá vốn chủ sở hữu, còn về dài hạn chính là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
Để đạt được mục tiêu này thì vấn đề quan trọng đưa ra đối với doanh nghiệp là không ngừng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Và để đầu tư được người ta đưa ra câu hỏi về vốn đầu tư. Dưới giác độ của dự án thì vốn đầu tư chính là tổng số tiền được chi tiêu để hình thành nên các tài sản cố định, tài sản lưu động cần thiết và vốn dự phòng.
Trong đó vốn đầu tư vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của dự án, đặc biệt là các dự án sản xuất. Và là phần để mua sắm, cải tạo, mở rộng tài sản cố định ( như: máy móc thiết bị sản xuất, nhà xưởng, phương tiện vận chuyển…). Phần vốn đầu tư còn lại được đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Đó là nguồn vốn để hình thành nên các tài sản lưu động ròng cần thiết để thực hiện dự án ( như: nguyên vật liệu, nhiên liệu, tiền thuê nhân công, chi phí quản lý…). Lượng vốn lưu động ròng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi dự án. Ngoài hai phần vốn chính này là phần vốn dự phòng để kịp thời cung cấp khi có phát sinh những chi phí ngoài dự kiến hay khi xảy ra rủi ro dự kiến.
Để xác định được lượng vốn cho dự án các nhà lập dự án tiến hành dự toán vốn. Thông thường các nhà thẩm định và các nhà lập dự án sẽ căn cứ vào năm tiêu chí cơ bản là : chính sách kinh tế, tình hình thị trường và sự cạnh tranh, chi phí tài chính, tiến bộ khoa học kỹ thuật, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Những tiêu chí này được sử dụng trong các phương pháp dự toán vốn như dự báo theo tỷ phần doanh thu, dự toán tổng thể. Nhà thẩm định sẽ xem xét toàn bộ quá trình lập dự toán vốn này để biết được mức vốn chính xác cần thiết cho dự án.
Tổng vốn đầu tư của dự án
=
Vốn cố định
+
Vốn lưu động
+
Vốn dự phòng
Tổng vốn đầu tư được xác định là vậy nhưng sẽ tài trợ bằng nguồn vốn nào? Đây là câu hỏi không chỉ nhà thẩm định mà chính chủ thực hiện dự án sẽ đặt ra đầu tiên. Về mặt lý thuyết và cả thực tế thì mỗi dự án có nhiều hình thức tài trợ vốn khác nhau.
Thứ nhất dự án có thể được tài trợ bằng vốn tự có : loại vốn này có được từ các nguồn : từ phát hành cổ phiếu, từ thặng dư vốn, từ lợi nhuận giữ lại.
* Từ việc phát hành cổ phiếu : cổ phiếu thường có nhiều ưu thế trong việc phát hành ra công chũng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán.Ví dụ như : sau khi phát hành doanh nghiệp có thể tạm thời mua lại, và doanh nghiệp có thể phát hành thêm khi cần thiết…Nên phát hành cổ phiều cũng được sử dụng để tài trợ cho dự án, đặc biệt là các dự án quy mô lớn.
* Từ nguồn vốn thặng dư: Đây chính là phần vốn có được từ chênh lệch giữa giá thị trường của cổ phiếu thường và mệnh giá của nó tại thời điểm phát hành.Tùy theo sự đánh giá của thị trường về trị giá cổ phiếu doanh nghiệp mà phần vốn này thu được là lớn hay nhố với phần vốn có được từ phát hành cổ phiếu thường.
* Từ lợi nhuận giữ lại : được tài trợ cho dự án chỉ khi quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có hiệu quả.Tài trợ bằng thu nhập giữ lại là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp vì như vậy doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí,và giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài.
Thứ hai : Tài trợ cho dự án bằng nợ : phần vốn này doanh nghiệp có thể có từ nguồn tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hàng trái phiếu ( Trái phiếu thực chất là một loại giấy vay nợ trung và dài hạn. Trên thị trường thường lưu hành nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp khác nhau ( trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phíếu có thể thu hồi, trái phiếu có thể chuyển đi ).Việc doanh nghiệp lựa chọn loại trái phiếu nào để tài trợ cho dự án còn tuỳ thuộc vào những vấn đề liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu)
Thứ ba : Tài trợ cho dự án bằng hình thức Leasing : thực chất đây là hình thức tài trợ dự án thông qua cho thuê các loại tài sản. Doanh nghiệp có thể thuê ngắn hạn tài sản hoặc thuê dài hạn tài sản. Đây là hình thức tài trợ rất phổ biến vì nó có nhiều ưu điểm so với các hình thức tài trợ khác. Đối với người cho thuê, cũng như người đi thuê và với nền kinh tế.
Cuối cùng là tài trợ bằng hình thức kết hợp : đó là nguồn vốn cho dự án được hình thành từ sự kết hợp giữa vốn vay, vốn chủ sỡ hữu với một tỷ lệ nhất định. Trong hình thức tài trợ này, chi phí vốn của dự án được đặc biệt quan tâm. Bởi vì từ đó mà nhà đầu tư xác định vay bao nhiêu, bỏ vốn chủ sỡ hữu ra bao nhiêu.
Nếu gọi T là thuế suất thu nhập doanh nghiệp.
Ke : Chi phí thực của vốn chủ sở hữu
Kd : Chi phí của vốn vay
We : Tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trong tổng vốn
Wd : Tỷ trọng của vốn vay trong tổng vốn
Thì ta có : WACC = We.ke + Wd.(1 – T).kd
Đây chính là chi phí vốn bình quân gia quyền của dự án.
1.4.2.Thẩm định doanh thu, chi phí, lợi nhuận hàng năm của dự án.
*Thẩm định về doanh thu của dự án : đầu tiên của của nhà thẩm định phải tìm hiểu về thị trường sản phẩm của dự án. Cán bộ thẩm định sẽ phải thu thập thông tin về giá cả sản phẩm đã có, hay sản phẩm tương tự của đối thủ cạnh tranh trên thị trường hiện tại là bao nhiêu? Nhu cầu về sản phẩm này hiện tại và xu hướng trong tương lai. Rồi đặc tính sản phẩm của dự án có khả năng chiếm lĩnh thị trường hay không? Công suất dự tính của dự án sẽ là bao nhiêu …. Từ đó dự tính doanh thu hàng năm của dự án.( Tính cho một năm )
Doanh thu
=
Lượng hàng dự tính tiêu thụ
X
Giá bán dự tính của một đơn vị sản phẩm
* Thẩm định về chi phí dự án : Thông thường phần vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn của dự án. Nên những phần vốn chi cho xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm máy mọc thiết bị sản xuất thường được thẩm định kĩ lưỡng. Cán bộ thẩm định phải xem xét giá cả nguyên – nhiên vật liệu cho phần xây dựng, cũng như giá cả máy móc sản xuất của dự án bao nhiêu là phù hợp với thị trường của khu vực, chất lượng máy móc ra sao…nhằm đánh giá chính xác cho phần vốn cần bỏ ra ban đầu. Và khi dự án đi vào hoạt động thì những chi phí về nguyên nhiên vật liệu, đơn giá tiền công, khấu hao... hình thành nên giá thành sản phẩm sẽ là bao nhiêu có phù hợp với dây truyền sản xuất, với thị trường hiện tại không? Phương pháp khấu hao như thế nào cũng đặc biệt được quan tâm bởi nó ảnh hưởng khá lớn đến dòng tiền ròng của dự án. Những chi tiết này sẽ được cán bộ thẩm định làm rõ trên cơ sở những nguyên tắc kế toán nhất định để xác định chi phí hợp lý cho từng năm của dự án.
* Thẩm định doanh thu dự án : Từ xác định doanh thu và chi phí hàng năm của dự án nhà thẩm định sẽ xác định được lợi nhuận hàng năm của dự án, từ đó dự tính được dòng tiền của dự án. Đây là phần chính yếu để nhà thẩm định biết được tính khả thi của dự án, cũng như khả năng thu hồi nợ từ kết quả hoạt động của dự án.
1.4.3.Thẩm định dòng tiền hàng năm của dự án.
1.4.3.1.Nguyên tắc xác định dòng tiền
Theo quan niệm chung hiện nay của các nhà kinh tế, dòng tiền của một dự án là các khoản chi và khoản thu được kì vọng xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Trong dòng tiền của dự án có dòng tiền ra, dòng tiền vào và dòng tiền ròng ( chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra của dự án ). Tuy nhiên dòng tiền ròng được coi là con số chính để xác định giá trị hay hiệu quả trực tiếp của dự án. Khi xác định dòng tiền các nhà phân tích và thẩm định có những nguyên tắc nhất định.
-Thứ nhất là loại bỏ chi phí chìm ra khỏi phân tích : Chi phí chìm là những chi phi mà doanh nghiệp - chủ dự án vẫn phải bỏ ra cho dù dự án có được chấp nhận và thực hiện hay không (chẳng hạn như chi phí tư vấn về dự án, chi phí thiết kế dự án, …). Chi phí này là một khoản chi tất yếu do đó không được đưa vào phần chi đầu tư của dự án.
-Thứ hai là chi phí cơ hội sẽ được đưa vào để phân tích chi phí của dự án : Có những dự án được thiết kế trong đó có sử dụng một số yếu tố đầu vào sẵn có của doanh nghiệp. Mà đáng lẽ ra nếu không sử dụng vào dự án thì nó sẽ được sử dụng vào việc khác và đem lại nguồn thu cho doanh nghiệp. Khi sử dụng vào dự án doanh nghiệp đã bỏ mất phần nguồn thu đó. Bởi vậy khoản chi phí này cần được đưa vào nhằm đánh giá chính xác chi phí thực của dự án.
-Thứ ba là tài sản lưu động ròng : phần tài sản lưu động ròng đối với hầu hết các dự án cũng được đầu tư và được chi thực tại năm đầu đi vào hoạt động của dự án. Tài sản lưu động ròng là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn. Đặc tính của tài sản lưu động ròng là nó không được khấu hao và thường được thu hồi vào giai đoạn kết thúc của dự án. Do vậy khi tiến hành dự án mới tài sản lưu động ròng cần được tài trợ ở năm đầu của dự án.
-Thứ tư là tác động của thuế : Thuế có những ảnh hưởng rất đáng ghi nhận đối với dòng tiền của dự án. Thông qua chi phí khấu hao của tài sản cố định thuế doanh nghiệp phải nộp từ dự án sẽ giảm làm cho dòng tiền tăng. Hay đối với chi phí lãi vay - một khoản chi phí trước phân bổ trước khi xác định thu nhập ròng, chi phí này cao cũng đồng nghĩa với thu nhập ròng giảm từ đây sẽ tiết kiệm một phần thuế thu nhập cho doanh nghiệp.
-Thứ năm là những tác động đến các dự án khác : Phần này đề cập đến tác động của dự án đang xem xét đến các dự án khác của công ty. Ví dụ khi công ty dự định đưa ra một sản phẩm mới thì những khách hàng hiện tại sẽ chuyển sang mua sản phẩm mới ( thay vì mua sản phẩm cũ ). Lợi nhuận từ dự án này là do sự dịch chuyển lợi nhuận từ dự án trước. Dòng tiền tăng thêm cho công ty sẽ nhỏ hơn dòng tiền ròng thu được từ dự án này .Mặt khác sản phẩm mới có thể làm tăng doanh thu từ các sản phẩm đi kèm ( như bàn chải kèm với kem đánh răng ), nên dòng tiền tăng thêm từ việc bán các sản phẩm hiện tại cần được đưa vào dự án mới. Vì vậy khi bàn đến tác động ngoại biên, cần tính đến đầy đủ tác động của đự án đang xem xét.
-Thứ sáu là khấu hao : khoản tiền đầu tư vào tài sản cố định của dự án thường được phân bổ trong các năm hoạt động của dự án, gọi là chi phí khấu hao, sau đó tài sản có thể được thanh lý. Tuy nhiên khấu hao không phải là khoản chi tiền, nên mức khấu hao cao không làm giảm dòng tiền, mặt khác còn làm tăng vì giảm số thuế phải nộp xuống.
1.4.3.2.Cách xác định dòng tiền
Thông thường ở mỗi dự án, các nhà thẩm định cũng như nhà phân tích đều phân định ra các dòng tiền sau : dòng tiền đầu tư ( bao gồm : tiền đầu tư vào tài sản cố định- chi phí lắp đặt, chi phí cơ hội, tiền đầu tư vào tài sản lưu động ròng ) và dòng tiền từ hoạt động kinh doanh ( dòng tiền này được xác định thông qua báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm dự tính hàng năm của dự án )
Tổng hợp những dòng tiền này cho ta dòng tiền của dự án. Ở đây vấn đề lãi suất chiết khấu được quan tâm hàng đầu khi xác định hiệu quả đầu tư của dư án bởi vì theo nguyên tắc giá trị thời gian của tiền thì các nhà phân tích phải quy nó về một mốc để so sánh.
Lãi suất chiết khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết của một dự án mà nhà đầu tư mong đợi. Nó chính là tỷ lệ mà nhờ đó các dòng tiền của dư án được quy về hiện tại để xác định giá trị hiện tại ròng của dự án (NPV). Việc lựa chọn lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào kết quả phân tích rủi ro, khả năng sinh lời của dự án và cơ cấu vốn. Rủi ro của dự án càng cao thì tỷ lệ lãi suất chiết khấu đòi hỏi càng cao. Cơ cấu vốn tài trợ cho dự án có chi phí vốn càng cao thì đòi hỏi lãi suất chiết khấu tối thiểu phải bằng với tỷ lệ chi phí đó.
Từ đây cho thấy việc xác định dòng tiền là vô cùng quan trọng và việc thẩm định dòng tiền của dự án là yếu tố căn bản để đưa đến những kết luận cho công tác thẩm định tài chính dự án.
1.4.4.Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án
Việc nhà đầu tư ra quyết định có hay không thực hiện dự án chủ yếu dựa trên những kết quả từ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án này. Mỗi chỉ tiêu này cho ta một phương pháp để đánh giá được hiệu quả tài chính dự án.
1.4.4.1.Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng -NPV
Khái niêm : Giá trị hiện tại ròng của dự án đầu tư được hiểu là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại các nguồn thu nhập ròng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
Hay
Trong đó:
NPV: giá trị hiện tại dòng của dự án
CFt : Dòng tiền xuất hiện ở năm thứ t của dự án ( t = 1àn)
CF0 : Vốn đầu tư bỏ ra ở thời điểm ban đầu (giả định vốn bỏ ra một lần ở năm đầu tiên của dự án)
n : số năm thực hiện dự án.
Bt : dòng thu của dự án vào năm thứ t
Ct : Dòng chi của dự án vào năm thứ t
Ý nghĩa của chỉ tiêu NPV
-Với những dự án có NPV >0 , thì tỷ lệ lợi nhuận của dự án lớn hơn tỷ lệ sinh lời sẵn có trên thị trường vốn với cùng mức rủi ro (lãi suất chiết khấu), trong khi đó NPV <0 cho thấy dự án sinh lời với tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ sinh lời sẵn có trên thị trường vốn với cùng mức rủi ro.
-Nếu tiền đầu tư được vay trên thị trường với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu thì NPV>0 cho thấy dòng tiền từ dự án đủ để trả vốn và lãi vay và đem lại một khoản lợi nhuận bằng NPV. Trong khi NPV<0 có ý nghĩa là dự án không tạo ra đủ tiền để trả chi phí tài chính.
Việc sử dụng NPV các nhà phân tích có thể đo lường trực tiếp lợi nhuận tuyệt đối của dự án đầu tư,từ đây có thể so sánh, lựa chọn các dự án khác nhau. Đặc biệt chỉ tiêu này có ưu điểm nổi bật là có xét đến giá trị thời gian của tiền và tính toán hiệu quả toàn bộ của dự án.
Tuy nhiên bên cạnh đó thì chỉ tiêu NPV cũng có một số nhược điểm đó là:
-Phụ thuộc nhiều vào tỷ lệ chiết khấu r được lựa chọn, mà cụ thể là r càng nhỏ thì NPV càng lớn và ngược lại.Trong khi đó việc xác định đúng r là rất khó khăn.
- NPV chỉ phản ánh được ( Là số tương đối : hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra là bao nhiêu ).
- Với các dự án có thời gian khác nhau,dùng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3222.doc.DOC